Cám ơn Quê Hương đã giới thiệu cùng Trang Thơ một tài danh rất đặc biệt, đó là DƯƠNG NHƯ NGUYỆN với thơ văn và hội họa. Trang Thơ hân hạnh chào đón người bạn mới đã chia sẻ tâm tình sâu lắng qua những ý thơ và đường nét màu sắc lôi cuốn, dịu dàng. SM không thể nói hết ý , nhường chỗ cho QH tiếp dùm đây. Thân chúc DNN luôn vui khỏe, thực hiện được những hoài bảo hằng mong ước.
Cám ơn Trang chủ đả có thịnh tình chào đón Cô NHƯ NGUYỆN và giới thiệu CÔ TẤM VIỆT NAM VÀ NỤ CƯỜI CỦA MONA LISA Tranh và Thơ của Dương Như Nguyện.
Quê hương xin được giới thiệu cùng các Bạn thơ chúng ta đôi dòng về Cô Như-Nguyện:
Uyển Nicole Dương
Tên thật Dương Như Nguyện Bút hiệu: Uyển Nicole Dương, Nhung-Uyên, Wendy Nicole (Nhu Nguyen) Duong. Sinh ở Hội An, Trung Việt Thời thơ ấu ở Huế và Sài Gòn
Giải danh dự văn chương phụ nữ Lễ Hai Bà Trưng, là nguời cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà nhận giải Văn Học toàn quốc, 1975
Được đào luyện tại trường Kịch Nghệ Hoa Kỳ, Nữu Ước và California (American Academy of Dramatic Arts) Cử Nhân Báo Chí Truyền Thông (Nam Illinois); Tiến Sĩ Luật (Houston); Thạc Sĩ Luật (Harvard)
Biography: Wendy Nicole Duong
Wendy Nicole Duong holds a BS in communication and journalism from Southern Illinois University, a JD degree from the University of Houston, and an LLM degree from Harvard. She was also trained at the American Academy of Dramatic Arts in Pasadena, California. She has been a journalist, public education administrator, attorney, law teacher, and a self-taught painter whose work focuses on l’Art Brut. A full time law professor at the University of Denver for 10 years, she has recently been selected as a US Scholar in the Fulbright Core Program for the next academic year (2011-12). Prior to her professorship, Ms. Duong spent 18 years in senior legal positions with three international law firms, the SEC, and the international major transactions group of Mobil Corporation.
Ms. Duong’s scholarship has concentrated on foreign direct investment, international business transactions, and patterns of global economic development. Also, much of her work has been influenced by her upbringing in Vietnam and led to her publishing pieces on Vietnamese women’s rights as well as human trafficking.
NT đọc bài thơ này của tác giả Dương Như Nguyện xong thì thầm nghĩ: Có điều gì liên quan giữa Nụ Cười của Cô Tấm và nàng Mona Lisa? Đối với nàng Mona Lisa là nụ cười bí ẩn, còn Cô Tấm trong truyện tích VN ta thì nụ cười của Cô Tấm sẽ là gì? Để rồi cõi lòng tác giả buông xuống câu thơ... " Xin mỉm cho tôi nửa nụ cười "
Đọc những chữ này làm SM nhớ tới câu chuyện cổ tích TẤM CÁM ngày còn nhỏ rất thích. Sự ẩn dụ gói ghém trong bài thơ đang khiến SM có vài thắc mắc Cô Tấm này là ai? Tại sao : Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn? Có phải ba đào chuyện nước non? Oán giận ai dày lên phận mỏng? Hay là trôi nước giữ lòng son?
Welcome Cô NHƯ NGUYỆN đã đến với Trang Thơ , nơi tụ họp của những người yêu thích văn nghệ …và hàn huyên với nhau bằng những comments đượm tình bằng hữu !
Đôi khi thọc lét nhau cho vui , nhất là cái anh chàng Vivu : học thì dốt , uống rượu cũng dở , hễ rượu vào …thì comment ra …ra rả , xin đọc qua rồi …bỏ !
Cô Như Nguyện đến với TT bằng hai tác phẩm : Họa và Thơ , và hy vọng trong tương lai gần : Kịch ! vì Vivu mê kịch lắm , nhất là Trong-khi-chờ-Godot !
Đề tài Monalisa và Cô Tấm lớn quá ! và …cả cái chết nữa !
Vivu ơi, lúc còn nhỏ đọc chuyện cổ dân gian, thấy Tấm mồ côi, hiền lành chịu khó, không nề hà gian khổ lại giàu lòng nhân ái là tui thấy thương quá. Ai đời bị Dì và em Cám qua mặt vù vù, làm khó dễ miết mà chỉ biết khóc và cầu cứu than vãn với Bụt. Thế rồi Tấm được đền bù dù cuộc đời lại thăng trầm thêm mấy bận, tui thiệt thà dễ dãi thích câu chuyện ở hiền gặp lành, gieo gió thì gặt bão... Bạn hello tui, nhắc tới chữ bạo động làm tui nhớ tới hoàng hậu Tấm khi chuyển đổi 180 độ, cũng rợn người...
Câu chuyện người con gái hái dâu tên Lê Thị Yến1 làng Thổ Lôi tỉnh Bắc Ninh (sau này được nhà vua đổi tên là Siêu Loại) trở thành Ỷ Lan nguyên phi, vợ yêu cuả vua Lý Thánh Tông đã trở thành huyền thoại.
Với dân gian Ỷ Lan là nguyên mẫu cuả cô Tấm thảo hiền trong truyện cổ tích Tấm Cám. Bắc Ninh vốn là nơi chuyên về nghề nuôi tằm dệt vải, là quê hương cuả những làn quan họ diễm tình và cũng là nơi sản sinh nhiều mỹ nữ trong đó không ít đã trở thành những vương phi sũng ái cuả các bậc vua chúa.
Nàng Tấm cuả chúng ta chắc hẳn phải xinh đẹp, thông minh và giàu ước mơ tham vọng. Sử kể rằng vua Thánh Tông đời Lý đã 40 tuổi chưa có con trai, vua bèn đến chùa cầu tự. Ngự giá đi đến đâu, dân làng đều dàn hầu hai bên đường để chiêm vọng. Lúc qua làng Thổ Lôi có người con gái hái dâu thấy xe vua đi, cứ đứng tựa gốc lan chứ không ra xem. Vua lấy làm lạ truyền gọi vào cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân (phu nhân tựa cây lan), sau sinh ra thái tử Càn Đức, Ỷ Lan được phong làm nguyên phi (đứng đầu các phi)2.
Sở dĩ nàng có hành động khác thường vì nàng thừa thông minh để hiểu rằng nhà vua đang trông chờ phép lạ mà các hoàng hậu3 và phi tần chốn hoàng cung đã không đáp ứng được, đó là sinh cho nhà vua một hoàng tử; một cô gái xinh đẹp và tràn đầy sức sống như nàng sao lại không ước mơ và tự tin rằng đây là duyên trời dành riêng cho mình. Có lẽ trái tim vị vua 40 tuổi đã rung động trước nhan sắc hồn nhiên tươi thắm cuả người con gái hái dâu nên không những không bắt tội khi quân mà lại cho là điềm lạ và lập tức đưa nàng về cung. Như một giấc mơ, chỉ trong phút chốc từ chốn dân dã nàng bước vào cung điện lầu son gác tiá, từ địa vị phu nhân, ba năm sau, khi sinh Càn Đức (tháng giêng Bính Ngọ-1066)4 trở thành nguyên phi.
Ỷ Lan không chỉ có công sinh ra Càn Đức để nối dõi ngôi vua mà còn có tài trị nước. Theo Toàn Thư vào năm Kỷ Dậu (1069) vua đi đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin nguyên phi giúp việc nôi trị vững vàng, lòng dân ca ngợi, vua nói: nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì sao? Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.
Nhưng tột đỉnh hạnh phúc ấy chỉ được 9 năm ngắn ngủi, tháng giêng Nhâm Tý (1072) vua Thánh Tông băng, thái tử Càn Đức 7 tuổi nối ngôi tức Lý Nhân Tông. Có lẽ nhà vua mất quá nhanh nên không kịp lập di chiếu trao quyền phụ chính cho ai, Lý Đạo Thành lúc đó giữ chức thái sư, hẳn nhiên chức phụ chính thuộc về ông và ông đã ủng hộ Dương hậu làm nhiếp chính5. Sử chép Nhân Tông tôn mẹ ruột làm hoàng thái phi và mẹ đích là Thượng Dương thái hậu buông rèm nhiếp chính. ...
...Cuộc sống hậu cung chứa đầy những cơn sóng ngầm cuả ghen ghét và toan tính độc ác. Ỷ Lan được nhà vua sũng ái tất có lắm kẻ thù. Dương Hậu là một đối thủ đáng gờm nay được quyền nhiếp chính, còn bà là mẹ đẻ lại bị tước quyền, bị đẩy vào tình thế bất an, thử hỏi làm sao không bất bình lo sợ. Thái hậu còn trẻ, nếu cho rằng khi gặp vua Thánh Tông chừng 17-18 thì lúc này bà khoảng 26-27, số tuổi chưa đủ để bà có một suy nghĩ và hành động chín chắn, nên đã khóc với vua Nhân Tông “mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?”.Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 72 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi buộc phải chết chôn theo Thánh Tông. Hoàng thái phi được tôn làm Linh Nhân thái hậu, cầm quyền nhiếp chính (Quý Sửu – 1073)6. Trong vụ đảo chính này có lẽ Ỷ Lan đã dựa vào Lý Thường Kiệt (là thái uý nắm giữ binh quyền), Lý Đạo Thành do can ngăn đã bị giáng chức đổi ra coi châu Nghệ An7. (Phải chăng tác giả truyện Tấm Cám đã mô phỏng hành động bức tử Thượng Dương thái hậu cuả Ỷ Lan mà hư cấu nên tình tiết nàng Tấm phỉnh gạt Cám để giết Cám?)
Linh Nhân thái hậu đã phạm một tội ác tày trời, đó là bức tử 73 sinh mạng nhằm củng cố quyền lực cuả mình, tội ác này đã làm mai một tiếng thơm cuả bà từ trước mà phải đợi đến 12 năm sau, qua sử sách ta mới thấy những chứng cứ rằng bà đã thành tâm sám hối tội lỗi cuả mình:
...-Năm Ất Sửu (1085) bấy giờ thiên hạ vô sự, thái hậu đi khắp nơi, ý muốn dựng chùa xây tháp (Toàn Thư ghi nhầm là hoàng hậu). -Tháng 8 năm Đinh Sửu (1097) thái hậu làm nhiều chùa tháp (Toàn Thư). -Tháng 2 năm Quý Mùi (1103) thái hậu xuất tiền trong kho để chuộc lại con gái nhà nghèo bị cầm thế đem về gả cho những người goá vợ (Toàn Thư, Đại Việt sử lược). -Năm Ất Mùi (1115) thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn 100 chùa (Toàn Thư, Cương Mục). Theo Đại Việt sử lược tháng 3 năm này chùa Sùng Phước ở làng Siêu Loại (quê thái hậu) hoàn thành.
Đại Việt sử lược ghi “Để sám hối việc đã lỡ lầm đó, Linh Nhân hoàng thái hậu lập nhiều chùa chiền thờ Phật và việc chuộc bần gia nữ”. Việt Sử Tiêu Án thì đánh giá việc sám hối làm phúc ấy là quá muộn. (trang 53 - bản điện tử)
Thời Lý đạo Phật có ảnh hưởng lớn trong xã hội, các vua Lý đều rất sùng đạo, vua Lý Thánh Tông là bậc tu hành thuộc thế hệ thứ nhất cuả phái Thảo Đường8. Tất nhiên Ỷ Lan cũng mộ Phật thương người, nhưng do tham sân hận mà đã gây nên tội ác. Khi tham vọng và sự trả thù đã được thoả mãn thì Phật tánh trong bà xuất hiện làm cho bà không thể có những giấc ngủ yên lành. Cứ cho Thượng Dương thái hậu là người đáng bị trừng phạt nhưng cớ sao lại bắt 72 cung nữ vô tội phải chết oan? Bà là người hiểu rõ luật nhân quả, sự báo ân trả oán trong kinh Phật nên lại càng muốn chuộc lỗi. Tuy nhiên vì thời gian thái hậu buông rèm nhiếp chính kéo dài đến 12 năm , cũng là thời gian Đại Việt phải giải quyết những cuộc chiến tranh với nhà Tống ở phương bắc (1075-1077) và Chiêm Thành ở phương nam nên bà chưa thể có những công trình to tát để chứng minh sự thành tâm sám hối dù có thể thái hậu đã từng lập đàn giải oan cho các vong hồn bị bà bức hại. ...
...Hẳn do nhân lành tiền kiếp, trong sự quay về này Linh Nhân thái hậu đã được nhiều vị thiền sư danh tiếng đời Lý Nhân Tông - thường được nhà vua và thái hậu vời vào cung để giảng kinh hay đàm đạo - trợ duyên như Giác Hải, Không Lộ, Chân Không, Mãn Giác, Thông Biện…mà gần gủi và có ảnh hưởng lớn đối với bà là Đại sư Mãn Giác và Quốc sư Thông Biện.
Đại sư Mãn Giác (1052-1096) tên Trường, con cuả viên ngoại lang Lý Hoài Tố (trước họ Nguyễn, được vua đổi sang họ Lý), năm 20 tuổi (1071) được chọn vào cung hầu thái tử, học rộng hiểu nhiều, thích chú tâm vào thiền học , rất được thái hậu yêu mến. Trong khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) Sư dâng biểu xin xuất gia (có thể ý chí xuất gia càng mãnh liệt khi chứng kiến sự bức tử - NV) và khi đạt đạo đã được vua và thái hậu lúc mới lưu tâm đến thiền học mời về ở chùa gần cung Cảnh Hưng để tiện việc hỏi han. Mãn Giác là người được vô sư trí (trí tuệ không do thầy dạy) nên rất được vua và thái hậu trân trọng gọi là Trưởng lão9. Sư là người đầu tiên dẫn dắt con đường tu hành cho thái hậu và hướng dẫn cách giải oan các vong hồn. Đại sư Mãn Giác đã từng tháp tùng cuộc tuần du cuả thái hậu năm Ất Sửu (1085), ý cuả thái hậu muốn để Sư chọn những vị trí thích hợp cho viêc xây chùa dựng tháp10.
Sau Đại sư Mãn Giác thì Quốc sư Thông Biện (?-1134) là người được thái hậu thường xuyên đến trai tăng để hỏi han về Phật học. Sư họ Ngô, hiệu là Trí Không. Do kính phục sự uyên bác về Phật pháp, thái hậu đã phong Sư làm Tăng lục, ban cà sa tiá và hiệu Thông Biện đại sư. Về sau thái hậu triệu Sư vào cung, phong làm Quốc sư, hỏi han yếu chỉ cuả thiền11. Sự thông tuệ và đức độ cuả Quốc sư đã làm thái hậu thấm nhuần lẽ vi diệu cuả giáo lý Đức Phật.
Những hành động từ bi cuả thái hậu tuy một phần là muốn chuộc tội và cầu phúc cho con12, nhưng cái chính là nhờ ảnh hưởng cuả đạo Phật. Bà đã hiểu rõ nguồn gốc mọi tội lỗi là từ vô minh, đời người vô thường, vinh hoa phú quý chỉ phù vân, cái tâm an lạc mới đáng quý. Thái hậu từng có bài kệ Ngộ đạo “Sắc là không, không là sắc, sắc không đều không bận, mới hiểu được chân không”13. ...
......Như vậy, từ khi vua Thái Tông chính thức trị vì, Linh Nhân thái hậu đã giốc tâm vào việc tu học. Bà đã góp công đức để Phật giáo phát triển cũng như làm nhiều việc thiện để sám hối những lầm lỡ trước đây cuả mình. Dưới ảnh hưởng cuả thái hậu, Lý Nhân Tông cũng là vị vua sùng đạo, nhân từ, thương dân. Những năm thiên tai, mất mùa đói kém, nhà vua thường tha tội nhân, giảm tô thuế…Trong suốt thời gian nhiếp chính cuả Linh Nhân thái hậu và trị vì cuả Lý Nhân Tông, ngoài chiến công thắng Tống oanh liệt, đất nước ta thanh bình, dân cư no ấm.
Thái hậu Linh Nhân đã ra đi thanh thản vào mùa thu tháng 7 năm Đinh Dậu (1117) khi mà trước đó vào mùa xuân năm này bà vẫn còn minh mẫn và với tấm lòng thương dân vô hạn đã nhắc nhở vua Nhân Tông định rõ lệnh cấm giết trộm trâu để nông dân được yên ổn cày cấy làm ăn14.
Sám văn Từ Bi Thuỷ Sám Pháp có dạy: “Hà nhân vô tội Hà giả vô khiên Phàm phu ngu hạnh Vô phi thị tội”
Tạm hiểu là: “Ai mà không phạm tội Ai mà chẳng lỗi lầm Kẻ phàm phu hành động ngu si Cho nên ai cũng phạm tội”.
Là một chúng sinh, Linh Nhân thái hậu cũng không tránh khỏi lỗi lầm. Thế nhưng “ Vô biên thắng phước giai hồi hướng” (kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện), sự quay về Bến Giác với tâm vô ngã cuả Linh Nhân thái hậu không phải quá muộn màng, ngược lại đã khiến chúng ta phải suy gẫm và ngưỡng mộ.
1 Theo dân gian 2 Theo” Ngự chế Việt sử tổng vịnh” cuả Dực Tông Anh hoàng đế. (Việt sử tiêu án thì chép” Nhà vua đi du quan đến làng Thượng Lôi (làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội) thấy một người con gái hái dâu đứng nấp vào đám cỏ tranh…Theo Toàn thư và Cương mục thì người con gái hái dâu nép vào đám cỏ lan) 3 Theo Đaị Việt sử lược vua Lý Thánh Tông lập 8 hoàng hậu. 4 Theo Toàn Thư ngoài Càn Đức, Ỷ Lan còn sinh thêm hoàng tử Minh Nhân vương (không rõ tên) vào tháng 2 Mậu Thân (1068). 5 Theo Hoàng Xuân Hãn - Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao triều Lý trang 84 6 Toàn Thư ghi nhầm 76 thị nữ 7 Hoàng Xuân Hãn – Sđd. Về sau Lý Đạo Thành được phục chức ở bên cạnh thái hậu để giúp đỡ 8 Thiền uyển tập anh trang 153 - bản điện tử -Lê Mạnh Thát dịch 9 Thiền uyển tập anh - phần Đại sư Mãn Giác trang 51-52 (bản điện tử) 10 Hoàng Xuân Hãn – Sđd trang 466-467 11 Thiền uyển tập anh - phần Quốc sư Thông Biện trang 48-49-50-51 (bản điện tử) 12 Vua Lý Nhân Tông không có con trai, về sau lập con cuả Sùng Hiền hầu là Dương Hoán làm thái tử 13 Thiền uyển tập anh trang 51 - bản điện tử 14 Toàn Thư ghi tháng 2 (trang 117 - bản điện tử), Cương Mục ghi tháng 3 (trang 150 - bản điện tử)
Ảnh Đền thờ Linh Nhân Thái Hậu. (Nhờ Trang chủ post lên cho các Bạn cùng xem).
sk đi lạc mãi hôm nay mới tới TT. Rất vui khi được biết TT có thêm bạn mới:nhà thơ, nhà văn Dương Như Nguyện. Qua lời giới thiệu của anh QH và hân hạnh được đọc cuốn "Bưu thiếp của Nam" của tác gỉa Uyên Nicole Dương, sk thiết nghĩ những mộng ước của tác gỉa cũng là mơ ước của nhiều người Việt Nam còn nặng tình với quê hương và dân tộc..... Chào mừng! chào mừng! người bạn mới của Trang Thơ. sk
Thân em vừa trắng, lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Hồ Xuân Hương
Nhà văn Việt Nam và nụ cười Mona Lisa của Cô Tấm
..Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn? Có phải ba đào chuyện nước non? Oán giận ai dày lên phận mỏng? Hay là trôi nước giữ lòng son?..
Và những bí ẩn của thơ Hồ Xuân Hương.
Mời các Bạn đọc bài phỏng vấn của Thụy Khuê với Ông Tạ Trọng Hiệp, người đi tìm tập thơ Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.
…Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích có một buổi nói chuyện về hai tác phẩm “Lưu Hương Ký” và “Ảnh Trường Kịch Giới” vào lúc 7 giờ 30 tối Thứ Sáu 27-1-2012 tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, Nam California.
“Lưu Hương Ký” là tập thơ chữ Hán và chữ Nôm do nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết ra cách đây gần 200 năm, cũng cổ bằng Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng người ta mới tìm ra được cách đây chừng 60 năm. Từ đó đến nay, cuốn sách được khai thác dần, nhưng mới được chừng 3/4 tổng số bài thơ. Nhưng lần này, GS Nguyễn Ngọc Bích đã phiên âm ra được tất cả các bài thơ của Hồ Xuân Hương, gồm 44 bài thơ, gồm 15 bài chữ Hán và 29 bài chữ Nôm của bà. ..
… Vào chiều Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012, nhân có nhà phê bình văn học Thụy Khuê ở Pháp sang để ra mắt cuốn biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Ðề Nguyễn Ái Quốc vào ngày Chủ Nhật 20 tháng 5, nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình trong vùng bỗng muốn có một buổi họp mặt thân mật để chào đón vợ chồng chị Thụy Khuê và kỹ sư Lê Tất Luyện, đặc biệt được lồng vào buổi tọa đàm của Thụy Khuê về Lưu Hương Ký của nhà biên khảo Nguyễn Ngọc Bích (và người đi bên cạnh cuộc đời là GS Tiến Sĩ Ðào Thị Hợi), và dĩ nhiên là bất cứ một trao đổi nào với con người bằng xương bằng thịt của một tác giả văn chương nổi tiếng đến từ phương xa ấy. Với hai cuốn sách vẫn còn thơm mùi mực là Lưu Hương Ký (Tổ Hợp Miền Ðông in) và Nhân Văn Giai Phẩm (Tiếng Quê Hương in) những người có mặt hôm đó tại tư gia của Thanh Bình được có dịp nghe chị Thụy Khuê nói về 2 nhà Hán Nôm học nổi tiếng ở Pháp, ông Hoàng Xuân Hãn và GS Tạ Trọng Hiệp. Tuy cả hai người đã mất nhưng cả hai vị đã tìm cách trong nhiều năm nhờ người ở Hà nội chép cho hoặc cho một phóng bản cuốn Lưu Hương Ký, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Hồ Xuân Hương, mà không làm sao có được. Nhưng nhờ GS Nguyễn Ngọc Bích đã có được người bạn ở Hà Nội chuyển sang cho một phóng bản tập thơ từ năm 2010 nên GS đã phiên âm được đầy đủ cả 44 bài thơ trong đó (15 bài chữ Hán và 29 bài thơ Nôm), một việc làm vừa tiếp nối tham vọng của ông Hoàng Xuân Hãn vừa hoàn tất công việc làm mà hơn nửa thế kỷ các học giả ở Hà Nội không làm xong (họ chỉ phiên âm được có 3/4 các bài trong sách trong suốt thời gian đó). Nhờ đó, ngày nay ta mới lần đầu có được một bản phiên âm và chú thích đầy đủ của tác phẩm Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương (đã có mặt từ 1814, tức gần 200 năm nay). ...
Nói chuyện với giáo sư Tạ Trọng Hiệp về văn bản Lưu Hương Ký
Thụy Khuê: Thưa anh, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì Lưu Hương Ký đã thất lạc, anh là người được giáo sư Hãn giao phó trách nhiệm về Việt Nam tìm lại tập Lưu Hương Ký, xin anh thuật lại sự việc đã xảy ra?
Tạ Trọng Hiệp: Về phần tư liệu, những gì Trần Thanh Mại đã giới thiệu trong tạp chí Văn Học (Hà Nội), năm 1964, thì trong bài biên khảo tác giả Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu lại hết. Tổng cộng ông Trần Thanh Mại mới giới thiệu 16 bài trong số 52 bài (24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm). Sau đó miền Bắc đi vào chiến tranh chống Mỹ nên bẵng đi một thời gian rất dài, không ai trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương và không ai mở lại Lưu Hương Ký mà đọc nữa. Rất tiếc ngoài số 16 bài đã được giới thiệu mà qua phiên âm nhiều khi thất cách. Trong bài của tác giả Hoàng Xuân Hãn đã điều chỉnh một vài tiếng cổ rất quan trọng bị đọc sai. Còn những bài chưa được giới thiệu thì bây giờ không có hy vọng gì được đọc nữa, bởi vì cuối năm 1988, khi tôi có dịp đi công tác ở Hà Nội, tôi đã cố gắng thực hiện một lời dặn của thầy Hãn là yêu cầu anh em trong nước cho phép chụp hay chép lại những bài chưa được Trần Thanh Mại giới thiệu và cả những bài Trần Thanh Mại chỉ phiên âm, dịch theo kiểu của mình. Việc sử dụng 16 bài đó rất bấp bênh. Khi tôi đến Viện Văn Học là nơi có chức năng bảo tồn bản Lưu Hương Ký quý báu đó thì không tìm ra. Các vị chuyên gia về văn học cổ Việt Nam đều cho biết cuốn ấy đã mất rồi. Tôi hỏi: Mất như thế nào? Trong trường hợp nào? Năm nào? Ai làm mất? Thì được biết sau ông Trần Thanh Mại (sau loạt bài viết về Hồ Xuân Hương, bài cuối cùng năm 1964, ông ấy bị bệnh, mất), người kế tục công tác nghiên cứu Hồ Xuân Hương, lại là người giữ công việc gần như quản thủ thư viện sách Hán Nôm của viện Văn Học, ông Hồ Tuấn Niệm. Trong những năm sơ tán để tránh bom Mỹ, ông Niệm đem theo trong ba lô cuốn Lưu Hương Ký mà không để lại Hà Nội một bản chụp nào cả và ông ấy cũng đã chết, không biết chết trong đợt sơ tán hay chết vì bệnh. Trong khi ông ấy chết thì số phận của tập Lưu Hương Ký cũng biến mất theo cái ba-lô của ông. Điều tra mãi mới bật ra được sự thật ấy.
Thụy Khuê: Còn có một hy vọng nhỏ nào tìm thấy Lưu Hương Ký không, thưa anh?
TTH: Tôi còn một hy vọng bé tí. Có thể một người duy nhất ở Hà Nội may ra còn giữ được bản chép tay toàn bộ 52 bài thơ trong Lưu Hương Ký. Đó là một tác giả khác cũng viết về Hồ Xuân Hương: ông Đào Thái Tôn. Trong cuốn thơ Hồ Xuân Hương của Nguyễn Lộc có nói rằng Đào Thái Tôn là người đã được giao cho đọc tập Lưu Hương Ký và đã dịch trọn vẹn 52 bài. Nếu không may cho chúng mình thì Đào Thái Tôn chỉ làm bản dịch mà không chép lại bản chữ gốc. Còn nếu ông ấy là người có lương tâm nhà nghề thì sẽ chép bản chữ Hán và bản Nôm để dùng và kiểm tra, rà đi rà lại bản dịch của ông cho tốt. Trong đợt về Việt Nam công tác, tôi cũng có yêu cầu cho tôi được gặp ông Đào Thái Tôn. Dù được nhiều người giúp đỡ, nhưng không may gặp dịp ông đi công tác ở chỗ khác, hơn nữa, tôi được biết quan hệ của ông với các chuyên gia của Viện Văn Học không được tốt lắm. Ông công tác ở viện khác cho nên cũng không dễ bắt liên lạc. Vậy chỉ còn hy vọng cuối cùng là hôm nào được gặp ông Đào Thái Tôn để hỏi: Anh còn giữ được bản chép tay Lưu Hương Ký không? Nếu không thì đây là một tổn thất không thể nào cứu vãn được nữa.
...Thụy Khuê: Anh nghĩ sao về sự coi nhẹ việc bảo tồn những văn bản cổ của nước nhà như vậy?
TTH: Khi được biết những tin đó, tôi quay sang một viện khác. Đó là Viện Hán Nôm. Viện này có chức năng -do sắc lệnh của hội đồng chính phủ ghi rất rõ khi sáng lập- là hễ có phát hiện những tư liệu quan trọng về cổ văn, cổ sử thì Viện Hán Nôm phải có một bản chụp hay bản sao. Tôi có hỏi tại sao các anh không có sáng kiến chụp một bản Lưu Hương Ký cho mọi người dùng? Thì lúc đó tôi lại biết thêm một lầm lẫn khác cũng rất đáng tiếc:
Đầu mối của sự phát hiện ra Lưu Hương Ký, lần đầu tiên, là năm 1963. Trần Thanh Mại đọc một cuốn bản thảo trong Viện Hán Nôm, không mang tên Lưu Hương Ký mà mang tên khác, nó là tác phẩm được ghi vào phiếu thư viện dưới nhan đề Du Hương Tích Động Ký, cả thảy gồm 9 tờ (bài ký chiếm khoảng một nửa), 4, 5 tờ còn lại chép 31 bài thơ chữ Hán của một người mình chỉ biết bút danh là ông Tốn Phong (là người bạn thơ và bạn tình của Hồ Xuân Hương), trong ấy có bài tựa ông ấy viết cho tập Lưu Hương Ký và 31 bài thơ của ông ấy tặng bà Hồ Xuân Hương. Khi tôi đặt yêu cầu của thầy Hãn là muốn có một bản chụp Lưu Hương Ký thì Viện Hán Nôm rất dễ dàng chụp cho tôi bài tựa Lưu Hương Ký và 31 bài thơ của Tốn Phong và tưởng rằng đây là Lưu Hương Kýcủa Viện Văn Học.
Đến khi tôi nói với họ chỉ có thơ Tốn Phong thôi, còn các thơ khác của Hồ Xuân Hương và những bài thơ Nôm trong có một bài tặng Nguyễn Du thì không có (mà Viện Hán Nôm lại tưởng mình có rồi nên không chụp bản của Viện Văn Học). Ngày hôm nay, chúng ta phải chua chát nhận rằng: Tài liệu vẫn chưa được bảo tồn tốt.
Thụy Khuê: Thưa anh, từ 1983, sau công trình nghiên cứu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho tới bây giờ, ở trong nước đã có ai tiếp tục công việc mà bác Hãn đã mở đầu?
TTH: Theo tôi biết thì chưa có và không có vì khi đã mất Lưu Hương Ký, khó mà tiến hành được. Ông Đào Thái Tôn đã tìm một hướng khác: Nhân ông ấy tìm được tập bản thảo mang tên Xuân Đường Đàm Thoại có một số bài thơ của một người cũng ký tên Hồ Xuân Hương.
Thụy Khuê: Xuân Đường Đàm Thoại Đào Thái Tôn đã tìm ra trước khi bác Hãn công bố bài viết về Hồ Xuân Hương?
TTH: Bác Hãn có biết Xuân Đường Đàm Thoại. Nhưng tập này gây phiền phức cho vấn đề Hồ Xuân Hương, vì nó cho mình biết ít nhất có hai Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương của Xuân Đường Đàm Thoại là người đời Tự Đức, lúc đó thì bà Hồ Xuân Hương kia cũng đã về núi từ 3, 4 chục năm rồi. Ông Đào Thái Tôn có đưa ra một nhận xét hồi đó tôi rất tán thành: Có nhiều Hồ Xuân Hương!
Có một Hồ Xuân Hương chân chính như thầy Hãn đã cố dựng lại sự nghiệp và tiểu sử và sau Hồ Xuân Hương chân chính ấy thì có một vài Hồ Xuân Hương khác mình chưa biết sự thật thế nào.
Còn riêng giả thiết cá nhân của tôi thì tôi nghi rằng có rất nhiều thơ về sau được đem vào cái gọi là thơ Hồ Xuân Hương, của nhà nho đàn ông, có thể là nhà nho vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, là đám thầy đồ rất giỏi chữ và rất tinh nghịch. Hiện bây giờ thì sau bài của Hoàng Xuân Hãn in trong tập san Khoa Học Xã Hội năm 1983, sau đó hay trước đó một chút có tác phẩm của Nguyễn Lộc đề là thơ Hồ Xuân Hương, tuyển những bài mà Trần Thanh Mại đã giới thiệu, còn những bài Trần Thanh Mại chưa giới thiệu thì ông Nguyễn Lộc nói là Đào Thái Tôn sẽ xuất bản 52 bài kia. Sau đó rồi thôi. Đào Thái Tôn lúc này làm gì tôi cũng không biết rõ.
...Thụy Khuê: Anh có thể cho biết đích xác năm nào mất Lưu Hương Ký không?
TTH: Trong những năm sơ tán sau 64. Bởi vì từ bài của Trần Thanh Mại Bản Lưu Hương Ký Và Lai Lịch Phát Hiện Của Nó đăng trong tạo chí Văn Học tháng 11 năm 1964, sau đó không có một công trình nào khác trở lại vấn đề khảo chứng và giới thiệu một cách khoa học như thầy Hãn đã thử làm về thơ Hồ Xuân Hương. Những bạn ở Viện Văn Học thông tin cho tôi về trường hợp đã để mất tập Lưu Hương Ký cùng số phận với cái chết của anh Hồ Tuấn Niệm. Tôi không ghi được cái chết của anh ấy là năm nào, có thể vào những năm sơ tán, khoảng 68-70.
Nhân tiện, xin thêm một hai câu về tác giả Đào Thái Tôn vì ông này có đưa ra một quan niệm xử lý tôi cho là khá linh hoạt về vấn đề những Hồ Xuân Hương. Về mặt sử học thuần túy, như thầy Hãn đã chứng minh, thì khó có thể chấp nhận có hai, ba Hồ Xuân Hương tài năng ngang nhau. Nhưng tôi biết Đào Thái Tôn có đủ cái độc đáo để dựng ra một khả năng: Sau Hồ Xuân Hương thật có nhiều Hồ Xuân Hương tạm gọi là giả đi, mà cũng không dở đâu. Và từ đó nẩy sinh ra một thứ trường phái gọi là thơ Hồ Xuân Hương, như gần đây ở Việt Nam nẩy trường phái thơ Bút Tre: Một người đã có công mở một con đường và những người khác ùa vào, núp dưới tên người kia. ...
...Đào Thái Tôn, theo tôi được biết, là người có nhiều ý kiến độc đáo, cho nên sự chung sống hòa bình của ông với các bạn nghiên cứu văn học ở Việt Nam không dễ. Là một người nghe nói cũng hơi bướng bỉnh, thích cãi, vì thế nhiều học giả thuộc các viện chính qui không ưa. Tôi không may về Việt Nam làm việc với các ông chính qui, lại nhờ mấy ông này đặt môi giới để gặp Đào Thái Tôn, thành ra hơi mệt. Kỳ sau tôi sẽ đi con đường khác.
Thụy Khuê: Xin cảm ơn anh Tạ Trọng Hiệp.
Sau này chúng tôi được một người trong giới nghiên cứu kể lại là những nhà nghiên cứu ở Hà Nội thời ấy, có cuốn Lưu Hương Ký nhưng không muốn cho thầy trò anh Hiệp (Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp) sử dụng. Xin ghi lại ý kiến này với tất cà dè dặt thường lệ.
Đôi dòng về tiểu sử và tác phầm của Hồ Xuân Hương: Hồ Xuân Hương.
Bức họa Mona Lisa (hay La Joconda) được hoàn thành năm 1506 đã làm mê hoặc những người yêu nghệ thuật. Sự bí ẩn quanh nụ cười và thân thế của nàng khiến họ mất khá nhiều công sức nghiên cứu.
Nhiều giả thuyết cho rằng, nàng là mẹ của hoạ sĩ Leonardo da Vinci; một người đàn bà quý phái; một gái điếm hạng sang; hay một bức chân dung tự hoạ biến tấu chính danh họa Leonardo da Vinci…?
Theo nghiên cứu mới nhất của các chuyên gia ở thư viện Đại học Heidelberg (Đức), nàng Monalisa là nguyên mẫu một người phụ nữ có thật, tên là Lisa Gherardini. Cô là vợ của Francesco del Giocondo, một thương gia tơ lụa giàu có người Florentina (Italy). Những dòng chú thích nguệch ngoạc của Agostino Vespucci - một người bạn của Da Vinci - bên lề cuốn sách ra đời tháng 10/1503 là bằng chứng rõ ràng nhất về thân thế nàng Monalisa.
Trước đó, sử gia nổi tiếng Giuseppe Pallanti cũng đã tìm đến gốc gác của vấn đề và xác định đó là nàng Lisa Gherardini, sinh ngày 15/6/1479 tại Florentine, Italy. Tuy nhiên, các nghiên cứu của ông lúc đó chưa đủ thuyết phục cho tới khi thư viện Đại học Heidelberg đưa ra được những bằng chứng cụ thể.
Sau bí mật "Nàng là ai?" được giải đáp, hậu thế lại tiếp tục đi tìm câu trả lời cho câu hỏi "Vì sao nàng cười?" về Mona Lisa.
Khuôn mặt nàng Mona Lisa trong tranh khiến người ta không thể đoán định nàng đang cười hay không? Nhìn riêng đôi mắt, họ thấy ánh lên nhiều niềm vui, sự lạc quan, yêu đời. Nhưng nhìn thấp xuống khoé miệng, đôi môi, người ta lại thấy nàng nghiêm nghị đến kỳ lạ. Người ta còn thấy rõ sự hồi hộp, lo lắng trong cái cười “nhếch mép” của nàng. Khuôn mặt Mona Lisa vừa cười, vừa nghiêm nghị đã trở thành đề tài được tranh cãi nhiều trong các cuộc khẩu chiến và bút chiến.
Theo nghiên cứu hiện đại bằng phương pháp nhận diện cảm xúc khuôn mặt trên máy tính, người đẹp của danh hoạ Leonardo da Vinci có 83% hạnh phúc, 9% khinh bỉ, 6% sợ hãi và 2% giận dữ. Một nghiên cứu khác dưới quan điểm lịch sử lại cho rằng, nàng Mona Lisa có nụ cười nửa miệng là do vào thế kỷ XV-XVI, răng của người ta rất xấu nên họ không muốn khoe ra.
Tiêu chuẩn nghiên cứu tiểu sử và phân tích thi văn được tiêu biểu qua vấn đề thơ Hồ Xuân Hương (HXH). Nhà thơ mang tư tưởng cách mạng xã hội và nữ quyền trong thời quân chủ ? Nhân vật lịch sử HXH? "Hiện tượng" HXH? Cái gì là thật sự của HXH? Cái gì đứng ngòai "thi phong" của người phụ nữ ấy? Cái gì có thể kiểm chứng bằng dữ kiện và suy luận dựa trên căn bản khoa học? Cái gì là "ý thích" và phỏng đóan chủ quan của người đọc, hoặc sự bóp méo, xuyên tạc, đánh lạc hướng – tất cả với mục đích gì? Đâu là sự thật?
Đây không phải là những bàn cãi cho vui gọi là "trà dư tửu hậu” trong trò chơi văn chương. Lịch sử và văn học sử là cốt lõi của sự trường tồn văn hóa và dân tộc, trong đó có cả vấn đề đạo đức sáng tác và nghiên cứu. Ngòai ra, trong trường hợp thơ HXH, còn có vấn đề phụ nữ và cải cách xã hội. Lịch sử và văn học sử như dòng nước không thể bị chặt đứt, cần gạch nối giữa xưa và nay.
Lấy thêm một trường hợp khác: Trái tim của Ỷ Lan Thái Phi - người phụ nữ có cơ hội giúp nước vì là vợ và mẹ của vua. Bà còn nổi danh lịch sử vì công đức Phật Giáo. Những giai thọai truyền khẩu cho rằng chính bà là đọan cuối của câu chuyện dân gian Tấm Cám: trong đó bà là người chủ mưu buộc tội Dương Hòang Hậu và gây ra cái chết thảm khốc của nhiều phụ nữ trong cung cấm. Đâu là sự thật? Đâu là cái Tâm – Tấm Lòng Son - của Ỷ Lan?
HXH trộn lẫn với dân gian, uất ức trước bất công xã hội. Ỷ Lan là điểm cao của tổ quốc, đến từ dân gian – cô hái dâu trở thành mẹ và vợ của vua, người phụ nữ nhiếp chính.
Tất cả – chung quanh hai người phụ nữ - Ỷ Lan của thời Lý khi Phật Giáo trở thành Quốc Giáo, hay HXH của nhiều kỷ nguyên sau - đều mang cùng tính cách bí ẩn hay huyền thọai như nụ cười Mona Lisa của danh họa Leonardo de Vinci. Đâu là sự thật? Sự thật trắng, đen, hay màu khói lam? Mona Lisa cười hay không cười? Đâu là TẤM lòng son của cô TẤM? Tấm lòng son là cái tâm chuyển hóa được định mệnh của Tố Như, là cái neo của vận nước nổi trôi qua hình ảnh người phụ nữ trong thơ HXH. Không phải chỉ hạn hẹp ở nghĩa chữ trinh của cô Kiều. Đâu là tấm lòng son? Bí ẩn của nụ cười Mona Lisa? Từ nước mắt lưng tròng cho quá khứ, đến nụ cười hứa hẹn của tương lai.
Tâm sự của nhà văn khi phải đặt bút xuống, phải đối diện với việc đi tìm sự thật? Gánh văn chương và trách nhiệm về sự thật nặng hơn cái chết. Trong phạm vi nhỏ bé hạn hẹp của một bài thơ sáng tạo vì ngẫu hứng, tôi trừu tượng hóa và biểu tượng hóa sự việc, hy vọng giúp độc giả tiêu khiển (và suy nghĩ thêm) một cách nhẹ nhàng.
Dương Như Nguyện
Copyright 2012
NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ NỤ CƯỜI MONA LISA CỦA CÔ TẤM
Cô Tấm ơi, cô Tấm ơi Tôi đã tin cô, ở tuổi nầy Tôi cho cô trọn trái tim ngay Tim ngay nên nói lời chân chất Không phải chuyện đùa, say, tỉnh, say
Cô Tấm ơi, Cô Tấm ơi Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn? Có phải ba đào chuyện nước non? Oán giận ai dày lên phận mỏng? Hay là trôi nước giữ lòng son?
Cô với Xuân Hương cách biệt nhau Một bên khí phách giữa cơ cầu Còn cô, giai thoại rừng Lan tím Cửa Phật cho Lan đổi sắc màu
Còn tôi, ngòi bút trót cong rồi Tiếng Việt không dùng, chỉ để chơi Đùa mãi nay mai tôi thất chí Vì giận con người lắm đãi bôi
Cô Tấm ơi, cô Tấm ơi Mới vừa gặp đấy đã chia phôi Nói cũng như không nói được lời Mai sau tôi chết, cô đừng khóc Xin mỉm cho tôi nửa nụ cười
Dương Như Nguyện
Ngày 9 tháng 10. Trang Diển Đàn Việt Thức vừa post bài thơ này, với đường Link Trang Thơ cho “phiên bán 1- Phiên bản gốc”.
Tranh và thơ thật hài hòa, nét đẹp của tranh quyện lấy chất thơ. Xem qua tưởng như là giản dị, nhưng cả tranh và thơ đều chất chứa một vẻ đài các , trang nhã...và sâu lắng. cx vừa mới đọc và vừa mới cảm nhạn được một ít... Rất ngưỡng mộ và hân hoan chào đón bạn đến với TRANG THƠ. cx
Cám ơn Quê Hương đã giới thiệu cùng Trang Thơ một tài danh rất đặc biệt, đó là DƯƠNG NHƯ NGUYỆN với thơ văn và hội họa. Trang Thơ hân hạnh chào đón người bạn mới đã chia sẻ tâm tình sâu lắng qua những ý thơ và đường nét màu sắc lôi cuốn, dịu dàng. SM không thể nói hết ý , nhường chỗ cho QH tiếp dùm đây.
ReplyDeleteThân chúc DNN luôn vui khỏe, thực hiện được những hoài bảo hằng mong ước.
Cám ơn Trang chủ đả có thịnh tình chào đón Cô NHƯ NGUYỆN và giới thiệu CÔ TẤM VIỆT NAM VÀ NỤ CƯỜI CỦA MONA LISA Tranh và Thơ của Dương Như Nguyện.
ReplyDeleteQuê hương xin được giới thiệu cùng các Bạn thơ chúng ta đôi dòng về Cô Như-Nguyện:
Uyển Nicole Dương
Tên thật Dương Như Nguyện
Bút hiệu: Uyển Nicole Dương, Nhung-Uyên, Wendy Nicole (Nhu Nguyen) Duong.
Sinh ở Hội An, Trung Việt
Thời thơ ấu ở Huế và Sài Gòn
Giải danh dự văn chương phụ nữ Lễ Hai Bà Trưng, là nguời cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà nhận giải Văn Học toàn quốc, 1975
Được đào luyện tại trường Kịch Nghệ Hoa Kỳ, Nữu Ước và California (American Academy of Dramatic Arts)
Cử Nhân Báo Chí Truyền Thông (Nam Illinois); Tiến Sĩ Luật (Houston); Thạc Sĩ Luật (Harvard)
Biography: Wendy Nicole Duong
Wendy Nicole Duong holds a BS in communication and journalism from Southern Illinois University, a JD degree from the University of Houston, and an LLM degree from Harvard. She was also trained at the American Academy of Dramatic Arts in Pasadena, California. She has been a journalist, public education administrator, attorney, law teacher, and a self-taught painter whose work focuses on l’Art Brut. A full time law professor at the University of Denver for 10 years, she has recently been selected as a US Scholar in the Fulbright Core Program for the next academic year (2011-12). Prior to her professorship, Ms. Duong spent 18 years in senior legal positions with three international law firms, the SEC, and the international major transactions group of Mobil Corporation.
Ms. Duong’s scholarship has concentrated on foreign direct investment, international business transactions, and patterns of global economic development. Also, much of her work has been influenced by her upbringing in Vietnam and led to her publishing pieces on Vietnamese women’s rights as well as human trafficking.
Source:
Code:
http://www.law.seattleu.edu/x10010.xml
Bài thơ thật quá hay,lời thơ nói ít mà diễn tả thật nhiều...Tranh vẽ lạ lẫm diệu kỳ,khen nữa thật rườm lời.
ReplyDeleteHoan nghênh bạn DNN vào trang thơ chia xẻ buồn vui cùng các bạn bè..
Mong muốn nghe những lời tâm tư "nước non" cùng bạn,rất mong
ReplyDeleteHÂN HOAN CHÀO ĐÓN MỘT NHÂN TÀI MỚI VÀO TRANG THƠ !
CE HOAVAN
NT đọc bài thơ này của tác giả Dương Như Nguyện xong thì thầm nghĩ: Có điều gì liên quan giữa Nụ Cười của Cô Tấm và nàng Mona Lisa?
ReplyDeleteĐối với nàng Mona Lisa là nụ cười bí ẩn, còn Cô Tấm trong truyện tích VN ta thì nụ cười của Cô Tấm sẽ là gì?
Để rồi cõi lòng tác giả buông xuống câu thơ...
" Xin mỉm cho tôi nửa nụ cười "
Hân hoan chào đón nhà thơ Dương Như Nguyện mới vào Trang Thơ để trang trải lòngcùng các bạn BMT.
ReplyDeleteChúc Bạn có những giây phúc An Vui
Sao lại cùng các bạn BMT hả PC, Trang thơ còn những bạn từ các miền khác của đất nước mà.
ReplyDeleteCô Tấm ơi, cô Tấm ơi!
ReplyDeleteĐọc những chữ này làm SM nhớ tới câu chuyện cổ tích TẤM CÁM ngày còn nhỏ rất thích. Sự ẩn dụ gói ghém trong bài thơ đang khiến SM có vài thắc mắc Cô Tấm này là ai? Tại sao :
Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn?
Có phải ba đào chuyện nước non?
Oán giận ai dày lên phận mỏng?
Hay là trôi nước giữ lòng son?
Hello SM,
ReplyDeleteTruyện cổ Tích Tấm Cám VN bị người ngoại quốc phê bình là đầy bạo động, thế mà kể cho trẻ em nghe !
Welcome Cô NHƯ NGUYỆN đã đến với Trang Thơ , nơi tụ họp của những người yêu thích văn nghệ …và hàn huyên với nhau bằng những comments đượm tình bằng hữu !
ReplyDeleteĐôi khi thọc lét nhau cho vui , nhất là cái anh chàng Vivu : học thì dốt , uống rượu cũng dở , hễ rượu vào …thì comment ra …ra rả , xin đọc qua rồi …bỏ !
Cô Như Nguyện đến với TT bằng hai tác phẩm : Họa và Thơ , và hy vọng trong tương lai gần : Kịch ! vì Vivu mê kịch lắm , nhất là Trong-khi-chờ-Godot !
Đề tài Monalisa và Cô Tấm lớn quá ! và …cả cái chết nữa !
Có lẽ Vivu phải đến Louvre …
Vivu ơi, lúc còn nhỏ đọc chuyện cổ dân gian, thấy Tấm mồ côi, hiền lành chịu khó, không nề hà gian khổ lại giàu lòng nhân ái là tui thấy thương quá. Ai đời bị Dì và em Cám qua mặt vù vù, làm khó dễ miết mà chỉ biết khóc và cầu cứu than vãn với Bụt. Thế rồi Tấm được đền bù dù cuộc đời lại thăng trầm thêm mấy bận, tui thiệt thà dễ dãi thích câu chuyện ở hiền gặp lành, gieo gió thì gặt bão...
ReplyDeleteBạn hello tui, nhắc tới chữ bạo động làm tui nhớ tới hoàng hậu Tấm khi chuyển đổi 180 độ, cũng rợn người...
Chuyện Cô Tấm và
ReplyDeleteLinh Nhân TháiHhậu.
Bài viết của Vĩnh Liêm và Văn Uyên.
LINH NHÂN THÁI HẬU :
SỰ QUAY VỀ MUỘN MÀNG?
Câu chuyện người con gái hái dâu tên Lê Thị Yến1 làng Thổ Lôi tỉnh Bắc Ninh (sau này được nhà vua đổi tên là Siêu Loại) trở thành Ỷ Lan nguyên phi, vợ yêu cuả vua Lý Thánh Tông đã trở thành huyền thoại.
Với dân gian Ỷ Lan là nguyên mẫu cuả cô Tấm thảo hiền trong truyện cổ tích Tấm Cám. Bắc Ninh vốn là nơi chuyên về nghề nuôi tằm dệt vải, là quê hương cuả những làn quan họ diễm tình và cũng là nơi sản sinh nhiều mỹ nữ trong đó không ít đã trở thành những vương phi sũng ái cuả các bậc vua chúa.
Nàng Tấm cuả chúng ta chắc hẳn phải xinh đẹp, thông minh và giàu ước mơ tham vọng. Sử kể rằng vua Thánh Tông đời Lý đã 40 tuổi chưa có con trai, vua bèn đến chùa cầu tự. Ngự giá đi đến đâu, dân làng đều dàn hầu hai bên đường để chiêm vọng. Lúc qua làng Thổ Lôi có người con gái hái dâu thấy xe vua đi, cứ đứng tựa gốc lan chứ không ra xem. Vua lấy làm lạ truyền gọi vào cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân (phu nhân tựa cây lan), sau sinh ra thái tử Càn Đức, Ỷ Lan được phong làm nguyên phi (đứng đầu các phi)2.
Sở dĩ nàng có hành động khác thường vì nàng thừa thông minh để hiểu rằng nhà vua đang trông chờ phép lạ mà các hoàng hậu3 và phi tần chốn hoàng cung đã không đáp ứng được, đó là sinh cho nhà vua một hoàng tử; một cô gái xinh đẹp và tràn đầy sức sống như nàng sao lại không ước mơ và tự tin rằng đây là duyên trời dành riêng cho mình. Có lẽ trái tim vị vua 40 tuổi đã rung động trước nhan sắc hồn nhiên tươi thắm cuả người con gái hái dâu nên không những không bắt tội khi quân mà lại cho là điềm lạ và lập tức đưa nàng về cung. Như một giấc mơ, chỉ trong phút chốc từ chốn dân dã nàng bước vào cung điện lầu son gác tiá, từ địa vị phu nhân, ba năm sau, khi sinh Càn Đức (tháng giêng Bính Ngọ-1066)4 trở thành nguyên phi.
Ỷ Lan không chỉ có công sinh ra Càn Đức để nối dõi ngôi vua mà còn có tài trị nước. Theo Toàn Thư vào năm Kỷ Dậu (1069) vua đi đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin nguyên phi giúp việc nôi trị vững vàng, lòng dân ca ngợi, vua nói: nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì sao? Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.
Nhưng tột đỉnh hạnh phúc ấy chỉ được 9 năm ngắn ngủi, tháng giêng Nhâm Tý (1072) vua Thánh Tông băng, thái tử Càn Đức 7 tuổi nối ngôi tức Lý Nhân Tông. Có lẽ nhà vua mất quá nhanh nên không kịp lập di chiếu trao quyền phụ chính cho ai, Lý Đạo Thành lúc đó giữ chức thái sư, hẳn nhiên chức phụ chính thuộc về ông và ông đã ủng hộ Dương hậu làm nhiếp chính5. Sử chép Nhân Tông tôn mẹ ruột làm hoàng thái phi và mẹ đích là Thượng Dương thái hậu buông rèm nhiếp chính.
...
...Cuộc sống hậu cung chứa đầy những cơn sóng ngầm cuả ghen ghét và toan tính độc ác. Ỷ Lan được nhà vua sũng ái tất có lắm kẻ thù. Dương Hậu là một đối thủ đáng gờm nay được quyền nhiếp chính, còn bà là mẹ đẻ lại bị tước quyền, bị đẩy vào tình thế bất an, thử hỏi làm sao không bất bình lo sợ. Thái hậu còn trẻ, nếu cho rằng khi gặp vua Thánh Tông chừng 17-18 thì lúc này bà khoảng 26-27, số tuổi chưa đủ để bà có một suy nghĩ và hành động chín chắn, nên đã khóc với vua Nhân Tông “mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?”.Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 72 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi buộc phải chết chôn theo Thánh Tông. Hoàng thái phi được tôn làm Linh Nhân thái hậu, cầm quyền nhiếp chính (Quý Sửu – 1073)6. Trong vụ đảo chính này có lẽ Ỷ Lan đã dựa vào Lý Thường Kiệt (là thái uý nắm giữ binh quyền), Lý Đạo Thành do can ngăn đã bị giáng chức đổi ra coi châu Nghệ An7. (Phải chăng tác giả truyện Tấm Cám đã mô phỏng hành động bức tử Thượng Dương thái hậu cuả Ỷ Lan mà hư cấu nên tình tiết nàng Tấm phỉnh gạt Cám để giết Cám?)
ReplyDeleteLinh Nhân thái hậu đã phạm một tội ác tày trời, đó là bức tử 73 sinh mạng nhằm củng cố quyền lực cuả mình, tội ác này đã làm mai một tiếng thơm cuả bà từ trước mà phải đợi đến 12 năm sau, qua sử sách ta mới thấy những chứng cứ rằng bà đã thành tâm sám hối tội lỗi cuả mình:
...
...-Năm Ất Sửu (1085) bấy giờ thiên hạ vô sự, thái hậu đi khắp nơi, ý muốn dựng chùa xây tháp (Toàn Thư ghi nhầm là hoàng hậu).
ReplyDelete-Tháng 8 năm Đinh Sửu (1097) thái hậu làm nhiều chùa tháp (Toàn Thư).
-Tháng 2 năm Quý Mùi (1103) thái hậu xuất tiền trong kho để chuộc lại con gái nhà nghèo bị cầm thế đem về gả cho những người goá vợ (Toàn Thư, Đại Việt sử lược).
-Năm Ất Mùi (1115) thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn 100 chùa (Toàn Thư, Cương Mục). Theo Đại Việt sử lược tháng 3 năm này chùa Sùng Phước ở làng Siêu Loại (quê thái hậu) hoàn thành.
Đại Việt sử lược ghi “Để sám hối việc đã lỡ lầm đó, Linh Nhân hoàng thái hậu lập nhiều chùa chiền thờ Phật và việc chuộc bần gia nữ”. Việt Sử Tiêu Án thì đánh giá việc sám hối làm phúc ấy là quá muộn. (trang 53 - bản điện tử)
Thời Lý đạo Phật có ảnh hưởng lớn trong xã hội, các vua Lý đều rất sùng đạo, vua Lý Thánh Tông là bậc tu hành thuộc thế hệ thứ nhất cuả phái Thảo Đường8. Tất nhiên Ỷ Lan cũng mộ Phật thương người, nhưng do tham sân hận mà đã gây nên tội ác. Khi tham vọng và sự trả thù đã được thoả mãn thì Phật tánh trong bà xuất hiện làm cho bà không thể có những giấc ngủ yên lành. Cứ cho Thượng Dương thái hậu là người đáng bị trừng phạt nhưng cớ sao lại bắt 72 cung nữ vô tội phải chết oan? Bà là người hiểu rõ luật nhân quả, sự báo ân trả oán trong kinh Phật nên lại càng muốn chuộc lỗi. Tuy nhiên vì thời gian thái hậu buông rèm nhiếp chính kéo dài đến 12 năm , cũng là thời gian Đại Việt phải giải quyết những cuộc chiến tranh với nhà Tống ở phương bắc (1075-1077) và Chiêm Thành ở phương nam nên bà chưa thể có những công trình to tát để chứng minh sự thành tâm sám hối dù có thể thái hậu đã từng lập đàn giải oan cho các vong hồn bị bà bức hại.
...
...Hẳn do nhân lành tiền kiếp, trong sự quay về này Linh Nhân thái hậu đã được nhiều vị thiền sư danh tiếng đời Lý Nhân Tông - thường được nhà vua và thái hậu vời vào cung để giảng kinh hay đàm đạo - trợ duyên như Giác Hải, Không Lộ, Chân Không, Mãn Giác, Thông Biện…mà gần gủi và có ảnh hưởng lớn đối với bà là Đại sư Mãn Giác và Quốc sư Thông Biện.
ReplyDeleteĐại sư Mãn Giác (1052-1096) tên Trường, con cuả viên ngoại lang Lý Hoài Tố (trước họ Nguyễn, được vua đổi sang họ Lý), năm 20 tuổi (1071) được chọn vào cung hầu thái tử, học rộng hiểu nhiều, thích chú tâm vào thiền học , rất được thái hậu yêu mến. Trong khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) Sư dâng biểu xin xuất gia (có thể ý chí xuất gia càng mãnh liệt khi chứng kiến sự bức tử - NV) và khi đạt đạo đã được vua và thái hậu lúc mới lưu tâm đến thiền học mời về ở chùa gần cung Cảnh Hưng để tiện việc hỏi han. Mãn Giác là người được vô sư trí (trí tuệ không do thầy dạy) nên rất được vua và thái hậu trân trọng gọi là Trưởng lão9. Sư là người đầu tiên dẫn dắt con đường tu hành cho thái hậu và hướng dẫn cách giải oan các vong hồn. Đại sư Mãn Giác đã từng tháp tùng cuộc tuần du cuả thái hậu năm Ất Sửu (1085), ý cuả thái hậu muốn để Sư chọn những vị trí thích hợp cho viêc xây chùa dựng tháp10.
Sau Đại sư Mãn Giác thì Quốc sư Thông Biện (?-1134) là người được thái hậu thường xuyên đến trai tăng để hỏi han về Phật học. Sư họ Ngô, hiệu là Trí Không. Do kính phục sự uyên bác về Phật pháp, thái hậu đã phong Sư làm Tăng lục, ban cà sa tiá và hiệu Thông Biện đại sư. Về sau thái hậu triệu Sư vào cung, phong làm Quốc sư, hỏi han yếu chỉ cuả thiền11. Sự thông tuệ và đức độ cuả Quốc sư đã làm thái hậu thấm nhuần lẽ vi diệu cuả giáo lý Đức Phật.
Những hành động từ bi cuả thái hậu tuy một phần là muốn chuộc tội và cầu phúc cho con12, nhưng cái chính là nhờ ảnh hưởng cuả đạo Phật. Bà đã hiểu rõ nguồn gốc mọi tội lỗi là từ vô minh, đời người vô thường, vinh hoa phú quý chỉ phù vân, cái tâm an lạc mới đáng quý. Thái hậu từng có bài kệ Ngộ đạo “Sắc là không, không là sắc, sắc không đều không bận, mới hiểu được chân không”13.
...
......Như vậy, từ khi vua Thái Tông chính thức trị vì, Linh Nhân thái hậu đã giốc tâm vào việc tu học. Bà đã góp công đức để Phật giáo phát triển cũng như làm nhiều việc thiện để sám hối những lầm lỡ trước đây cuả mình. Dưới ảnh hưởng cuả thái hậu, Lý Nhân Tông cũng là vị vua sùng đạo, nhân từ, thương dân. Những năm thiên tai, mất mùa đói kém, nhà vua thường tha tội nhân, giảm tô thuế…Trong suốt thời gian nhiếp chính cuả Linh Nhân thái hậu và trị vì cuả Lý Nhân Tông, ngoài chiến công thắng Tống oanh liệt, đất nước ta thanh bình, dân cư no ấm.
ReplyDeleteThái hậu Linh Nhân đã ra đi thanh thản vào mùa thu tháng 7 năm Đinh Dậu (1117) khi mà trước đó vào mùa xuân năm này bà vẫn còn minh mẫn và với tấm lòng thương dân vô hạn đã nhắc nhở vua Nhân Tông định rõ lệnh cấm giết trộm trâu để nông dân được yên ổn cày cấy làm ăn14.
Sám văn Từ Bi Thuỷ Sám Pháp có dạy:
“Hà nhân vô tội
Hà giả vô khiên
Phàm phu ngu hạnh
Vô phi thị tội”
Tạm hiểu là:
“Ai mà không phạm tội
Ai mà chẳng lỗi lầm
Kẻ phàm phu hành động ngu si
Cho nên ai cũng phạm tội”.
Là một chúng sinh, Linh Nhân thái hậu cũng không tránh khỏi lỗi lầm. Thế nhưng “ Vô biên thắng phước giai hồi hướng” (kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện), sự quay về Bến Giác với tâm vô ngã cuả Linh Nhân thái hậu không phải quá muộn màng, ngược lại đã khiến chúng ta phải suy gẫm và ngưỡng mộ.
1 Theo dân gian
2 Theo” Ngự chế Việt sử tổng vịnh” cuả Dực Tông Anh hoàng đế. (Việt sử tiêu án thì chép” Nhà vua đi du quan đến làng Thượng Lôi (làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội) thấy một người con gái hái dâu đứng nấp vào đám cỏ tranh…Theo Toàn thư và Cương mục thì người con gái hái dâu nép vào đám cỏ lan)
3 Theo Đaị Việt sử lược vua Lý Thánh Tông lập 8 hoàng hậu.
4 Theo Toàn Thư ngoài Càn Đức, Ỷ Lan còn sinh thêm hoàng tử Minh Nhân vương (không rõ tên) vào tháng 2 Mậu Thân (1068).
5 Theo Hoàng Xuân Hãn - Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao triều Lý trang 84
6 Toàn Thư ghi nhầm 76 thị nữ
7 Hoàng Xuân Hãn – Sđd. Về sau Lý Đạo Thành được phục chức ở bên cạnh thái hậu để giúp đỡ
8 Thiền uyển tập anh trang 153 - bản điện tử -Lê Mạnh Thát dịch
9 Thiền uyển tập anh - phần Đại sư Mãn Giác trang 51-52 (bản điện tử)
10 Hoàng Xuân Hãn – Sđd trang 466-467
11 Thiền uyển tập anh - phần Quốc sư Thông Biện trang 48-49-50-51 (bản điện tử)
12 Vua Lý Nhân Tông không có con trai, về sau lập con cuả Sùng Hiền hầu là Dương Hoán làm thái tử
13 Thiền uyển tập anh trang 51 - bản điện tử
14 Toàn Thư ghi tháng 2 (trang 117 - bản điện tử), Cương Mục ghi tháng 3 (trang 150 - bản điện tử)
Ảnh Đền thờ Linh Nhân Thái Hậu.
(Nhờ Trang chủ post lên cho các Bạn cùng xem).
sk đi lạc mãi hôm nay mới tới TT.
ReplyDeleteRất vui khi được biết TT có thêm bạn mới:nhà thơ, nhà văn Dương Như Nguyện.
Qua lời giới thiệu của anh QH và hân hạnh được đọc cuốn "Bưu thiếp của Nam" của tác gỉa Uyên Nicole Dương, sk thiết nghĩ những mộng ước của tác gỉa cũng là mơ ước của nhiều người Việt Nam còn nặng tình với quê hương và dân tộc.....
Chào mừng! chào mừng! người bạn mới của Trang Thơ.
sk
Bánh Trôi Nước
ReplyDeleteThân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Hồ Xuân Hương
Nhà văn Việt Nam và nụ cười Mona Lisa của Cô Tấm
..Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn?
Có phải ba đào chuyện nước non?
Oán giận ai dày lên phận mỏng?
Hay là trôi nước giữ lòng son?..
Và những bí ẩn của thơ Hồ Xuân Hương.
Mời các Bạn đọc bài phỏng vấn của Thụy Khuê với Ông Tạ Trọng Hiệp, người đi tìm tập thơ Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.
…Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích có một buổi nói chuyện về hai tác phẩm “Lưu Hương Ký” và “Ảnh Trường Kịch Giới” vào lúc 7 giờ 30 tối Thứ Sáu 27-1-2012 tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, Nam California.
“Lưu Hương Ký” là tập thơ chữ Hán và chữ Nôm do nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết ra cách đây gần 200 năm, cũng cổ bằng Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng người ta mới tìm ra được cách đây chừng 60 năm. Từ đó đến nay, cuốn sách được khai thác dần, nhưng mới được chừng 3/4 tổng số bài thơ. Nhưng lần này, GS Nguyễn Ngọc Bích đã phiên âm ra được tất cả các bài thơ của Hồ Xuân Hương, gồm 44 bài thơ, gồm 15 bài chữ Hán và 29 bài chữ Nôm của bà. ..
… Vào chiều Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012, nhân có nhà phê bình văn học Thụy Khuê ở Pháp sang để ra mắt cuốn biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Ðề Nguyễn Ái Quốc vào ngày Chủ Nhật 20 tháng 5, nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình trong vùng bỗng muốn có một buổi họp mặt thân mật để chào đón vợ chồng chị Thụy Khuê và kỹ sư Lê Tất Luyện, đặc biệt được lồng vào buổi tọa đàm của Thụy Khuê về Lưu Hương Ký của nhà biên khảo Nguyễn Ngọc Bích (và người đi bên cạnh cuộc đời là GS Tiến Sĩ Ðào Thị Hợi), và dĩ nhiên là bất cứ một trao đổi nào với con người bằng xương bằng thịt của một tác giả văn chương nổi tiếng đến từ phương xa ấy. Với hai cuốn sách vẫn còn thơm mùi mực là Lưu Hương Ký (Tổ Hợp Miền Ðông in) và Nhân Văn Giai Phẩm (Tiếng Quê Hương in) những người có mặt hôm đó tại tư gia của Thanh Bình được có dịp nghe chị Thụy Khuê nói về 2 nhà Hán Nôm học nổi tiếng ở Pháp, ông Hoàng Xuân Hãn và GS Tạ Trọng Hiệp. Tuy cả hai người đã mất nhưng cả hai vị đã tìm cách trong nhiều năm nhờ người ở Hà nội chép cho hoặc cho một phóng bản cuốn Lưu Hương Ký, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Hồ Xuân Hương, mà không làm sao có được.
Nhưng nhờ GS Nguyễn Ngọc Bích đã có được người bạn ở Hà Nội chuyển sang cho một phóng bản tập thơ từ năm 2010 nên GS đã phiên âm được đầy đủ cả 44 bài thơ trong đó (15 bài chữ Hán và 29 bài thơ Nôm), một việc làm vừa tiếp nối tham vọng của ông Hoàng Xuân Hãn vừa hoàn tất công việc làm mà hơn nửa thế kỷ các học giả ở Hà Nội không làm xong (họ chỉ phiên âm được có 3/4 các bài trong sách trong suốt thời gian đó). Nhờ đó, ngày nay ta mới lần đầu có được một bản phiên âm và chú thích đầy đủ của tác phẩm Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương (đã có mặt từ 1814, tức gần 200 năm nay).
...
...
ReplyDeleteThụy Khuê
Nói chuyện với giáo sư Tạ Trọng Hiệp về văn bản Lưu Hương Ký
Thụy Khuê: Thưa anh, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì Lưu Hương Ký đã thất lạc, anh là người được giáo sư Hãn giao phó trách nhiệm về Việt Nam tìm lại tập Lưu Hương Ký, xin anh thuật lại sự việc đã xảy ra?
Tạ Trọng Hiệp: Về phần tư liệu, những gì Trần Thanh Mại đã giới thiệu trong tạp chí Văn Học (Hà Nội), năm 1964, thì trong bài biên khảo tác giả Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu lại hết. Tổng cộng ông Trần Thanh Mại mới giới thiệu 16 bài trong số 52 bài (24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm). Sau đó miền Bắc đi vào chiến tranh chống Mỹ nên bẵng đi một thời gian rất dài, không ai trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương và không ai mở lại Lưu Hương Ký mà đọc nữa. Rất tiếc ngoài số 16 bài đã được giới thiệu mà qua phiên âm nhiều khi thất cách. Trong bài của tác giả Hoàng Xuân Hãn đã điều chỉnh một vài tiếng cổ rất quan trọng bị đọc sai. Còn những bài chưa được giới thiệu thì bây giờ không có hy vọng gì được đọc nữa, bởi vì cuối năm 1988, khi tôi có dịp đi công tác ở Hà Nội, tôi đã cố gắng thực hiện một lời dặn của thầy Hãn là yêu cầu anh em trong nước cho phép chụp hay chép lại những bài chưa được Trần Thanh Mại giới thiệu và cả những bài Trần Thanh Mại chỉ phiên âm, dịch theo kiểu của mình. Việc sử dụng 16 bài đó rất bấp bênh.
Khi tôi đến Viện Văn Học là nơi có chức năng bảo tồn bản Lưu Hương Ký quý báu đó thì không tìm ra. Các vị chuyên gia về văn học cổ Việt Nam đều cho biết cuốn ấy đã mất rồi. Tôi hỏi: Mất như thế nào? Trong trường hợp nào? Năm nào? Ai làm mất? Thì được biết sau ông Trần Thanh Mại (sau loạt bài viết về Hồ Xuân Hương, bài cuối cùng năm 1964, ông ấy bị bệnh, mất), người kế tục công tác nghiên cứu Hồ Xuân Hương, lại là người giữ công việc gần như quản thủ thư viện sách Hán Nôm của viện Văn Học, ông Hồ Tuấn Niệm.
Trong những năm sơ tán để tránh bom Mỹ, ông Niệm đem theo trong ba lô cuốn Lưu Hương Ký mà không để lại Hà Nội một bản chụp nào cả và ông ấy cũng đã chết, không biết chết trong đợt sơ tán hay chết vì bệnh. Trong khi ông ấy chết thì số phận của tập Lưu Hương Ký cũng biến mất theo cái ba-lô của ông. Điều tra mãi mới bật ra được sự thật ấy.
Thụy Khuê: Còn có một hy vọng nhỏ nào tìm thấy Lưu Hương Ký không, thưa anh?
TTH: Tôi còn một hy vọng bé tí. Có thể một người duy nhất ở Hà Nội may ra còn giữ được bản chép tay toàn bộ 52 bài thơ trong Lưu Hương Ký. Đó là một tác giả khác cũng viết về Hồ Xuân Hương: ông Đào Thái Tôn. Trong cuốn thơ Hồ Xuân Hương của Nguyễn Lộc có nói rằng Đào Thái Tôn là người đã được giao cho đọc tập Lưu Hương Ký và đã dịch trọn vẹn 52 bài. Nếu không may cho chúng mình thì Đào Thái Tôn chỉ làm bản dịch mà không chép lại bản chữ gốc. Còn nếu ông ấy là người có lương tâm nhà nghề thì sẽ chép bản chữ Hán và bản Nôm để dùng và kiểm tra, rà đi rà lại bản dịch của ông cho tốt. Trong đợt về Việt Nam công tác, tôi cũng có yêu cầu cho tôi được gặp ông Đào Thái Tôn. Dù được nhiều người giúp đỡ, nhưng không may gặp dịp ông đi công tác ở chỗ khác, hơn nữa, tôi được biết quan hệ của ông với các chuyên gia của Viện Văn Học không được tốt lắm. Ông công tác ở viện khác cho nên cũng không dễ bắt liên lạc. Vậy chỉ còn hy vọng cuối cùng là hôm nào được gặp ông Đào Thái Tôn để hỏi: Anh còn giữ được bản chép tay Lưu Hương Ký không? Nếu không thì đây là một tổn thất không thể nào cứu vãn được nữa.
...
...Thụy Khuê: Anh nghĩ sao về sự coi nhẹ việc bảo tồn những văn bản cổ của nước nhà như vậy?
ReplyDeleteTTH: Khi được biết những tin đó, tôi quay sang một viện khác. Đó là Viện Hán Nôm. Viện này có chức năng -do sắc lệnh của hội đồng chính phủ ghi rất rõ khi sáng lập- là hễ có phát hiện những tư liệu quan trọng về cổ văn, cổ sử thì Viện Hán Nôm phải có một bản chụp hay bản sao. Tôi có hỏi tại sao các anh không có sáng kiến chụp một bản Lưu Hương Ký cho mọi người dùng? Thì lúc đó tôi lại biết thêm một lầm lẫn khác cũng rất đáng tiếc:
Đầu mối của sự phát hiện ra Lưu Hương Ký, lần đầu tiên, là năm 1963. Trần Thanh Mại đọc một cuốn bản thảo trong Viện Hán Nôm, không mang tên Lưu Hương Ký mà mang tên khác, nó là tác phẩm được ghi vào phiếu thư viện dưới nhan đề Du Hương Tích Động Ký, cả thảy gồm 9 tờ (bài ký chiếm khoảng một nửa), 4, 5 tờ còn lại chép 31 bài thơ chữ Hán của một người mình chỉ biết bút danh là ông Tốn Phong (là người bạn thơ và bạn tình của Hồ Xuân Hương), trong ấy có bài tựa ông ấy viết cho tập Lưu Hương Ký và 31 bài thơ của ông ấy tặng bà Hồ Xuân Hương. Khi tôi đặt yêu cầu của thầy Hãn là muốn có một bản chụp Lưu Hương Ký thì Viện Hán Nôm rất dễ dàng chụp cho tôi bài tựa Lưu Hương Ký và 31 bài thơ của Tốn Phong và tưởng rằng đây là Lưu Hương Kýcủa Viện Văn Học.
Đến khi tôi nói với họ chỉ có thơ Tốn Phong thôi, còn các thơ khác của Hồ Xuân Hương và những bài thơ Nôm trong có một bài tặng Nguyễn Du thì không có (mà Viện Hán Nôm lại tưởng mình có rồi nên không chụp bản của Viện Văn Học). Ngày hôm nay, chúng ta phải chua chát nhận rằng: Tài liệu vẫn chưa được bảo tồn tốt.
Thụy Khuê: Thưa anh, từ 1983, sau công trình nghiên cứu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho tới bây giờ, ở trong nước đã có ai tiếp tục công việc mà bác Hãn đã mở đầu?
TTH: Theo tôi biết thì chưa có và không có vì khi đã mất Lưu Hương Ký, khó mà tiến hành được. Ông Đào Thái Tôn đã tìm một hướng khác: Nhân ông ấy tìm được tập bản thảo mang tên Xuân Đường Đàm Thoại có một số bài thơ của một người cũng ký tên Hồ Xuân Hương.
Thụy Khuê: Xuân Đường Đàm Thoại Đào Thái Tôn đã tìm ra trước khi bác Hãn công bố bài viết về Hồ Xuân Hương?
TTH: Bác Hãn có biết Xuân Đường Đàm Thoại. Nhưng tập này gây phiền phức cho vấn đề Hồ Xuân Hương, vì nó cho mình biết ít nhất có hai Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương của Xuân Đường Đàm Thoại là người đời Tự Đức, lúc đó thì bà Hồ Xuân Hương kia cũng đã về núi từ 3, 4 chục năm rồi. Ông Đào Thái Tôn có đưa ra một nhận xét hồi đó tôi rất tán thành: Có nhiều Hồ Xuân Hương!
Có một Hồ Xuân Hương chân chính như thầy Hãn đã cố dựng lại sự nghiệp và tiểu sử và sau Hồ Xuân Hương chân chính ấy thì có một vài Hồ Xuân Hương khác mình chưa biết sự thật thế nào.
Còn riêng giả thiết cá nhân của tôi thì tôi nghi rằng có rất nhiều thơ về sau được đem vào cái gọi là thơ Hồ Xuân Hương, của nhà nho đàn ông, có thể là nhà nho vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, là đám thầy đồ rất giỏi chữ và rất tinh nghịch. Hiện bây giờ thì sau bài của Hoàng Xuân Hãn in trong tập san Khoa Học Xã Hội năm 1983, sau đó hay trước đó một chút có tác phẩm của Nguyễn Lộc đề là thơ Hồ Xuân Hương, tuyển những bài mà Trần Thanh Mại đã giới thiệu, còn những bài Trần Thanh Mại chưa giới thiệu thì ông Nguyễn Lộc nói là Đào Thái Tôn sẽ xuất bản 52 bài kia. Sau đó rồi thôi. Đào Thái Tôn lúc này làm gì tôi cũng không biết rõ.
...Thụy Khuê: Anh có thể cho biết đích xác năm nào mất Lưu Hương Ký không?
ReplyDeleteTTH: Trong những năm sơ tán sau 64. Bởi vì từ bài của Trần Thanh Mại Bản Lưu Hương Ký Và Lai Lịch Phát Hiện Của Nó đăng trong tạo chí Văn Học tháng 11 năm 1964, sau đó không có một công trình nào khác trở lại vấn đề khảo chứng và giới thiệu một cách khoa học như thầy Hãn đã thử làm về thơ Hồ Xuân Hương. Những bạn ở Viện Văn Học thông tin cho tôi về trường hợp đã để mất tập Lưu Hương Ký cùng số phận với cái chết của anh Hồ Tuấn Niệm. Tôi không ghi được cái chết của anh ấy là năm nào, có thể vào những năm sơ tán, khoảng 68-70.
Nhân tiện, xin thêm một hai câu về tác giả Đào Thái Tôn vì ông này có đưa ra một quan niệm xử lý tôi cho là khá linh hoạt về vấn đề những Hồ Xuân Hương. Về mặt sử học thuần túy, như thầy Hãn đã chứng minh, thì khó có thể chấp nhận có hai, ba Hồ Xuân Hương tài năng ngang nhau. Nhưng tôi biết Đào Thái Tôn có đủ cái độc đáo để dựng ra một khả năng: Sau Hồ Xuân Hương thật có nhiều Hồ Xuân Hương tạm gọi là giả đi, mà cũng không dở đâu. Và từ đó nẩy sinh ra một thứ trường phái gọi là thơ Hồ Xuân Hương, như gần đây ở Việt Nam nẩy trường phái thơ Bút Tre: Một người đã có công mở một con đường và những người khác ùa vào, núp dưới tên người kia.
...
...Đào Thái Tôn, theo tôi được biết, là người có nhiều ý kiến độc đáo, cho nên sự chung sống hòa bình của ông với các bạn nghiên cứu văn học ở Việt Nam không dễ. Là một người nghe nói cũng hơi bướng bỉnh, thích cãi, vì thế nhiều học giả thuộc các viện chính qui không ưa. Tôi không may về Việt Nam làm việc với các ông chính qui, lại nhờ mấy ông này đặt môi giới để gặp Đào Thái Tôn, thành ra hơi mệt. Kỳ sau tôi sẽ đi con đường khác.
ReplyDeleteThụy Khuê: Xin cảm ơn anh Tạ Trọng Hiệp.
Sau này chúng tôi được một người trong giới nghiên cứu kể lại là những nhà nghiên cứu ở Hà Nội thời ấy, có cuốn Lưu Hương Ký nhưng không muốn cho thầy trò anh Hiệp (Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp) sử dụng.
Xin ghi lại ý kiến này với tất cà dè dặt thường lệ.
Đôi dòng về tiểu sử và tác phầm của Hồ Xuân Hương:
Hồ Xuân Hương.
Thân thế và nụ cười bí ẩn của nàng Mona Lisa
ReplyDeleteBức họa Mona Lisa (hay La Joconda) được hoàn thành năm 1506 đã làm mê hoặc những người yêu nghệ thuật. Sự bí ẩn quanh nụ cười và thân thế của nàng khiến họ mất khá nhiều công sức nghiên cứu.
Nhiều giả thuyết cho rằng, nàng là mẹ của hoạ sĩ Leonardo da Vinci; một người đàn bà quý phái; một gái điếm hạng sang; hay một bức chân dung tự hoạ biến tấu chính danh họa Leonardo da Vinci…?
Theo nghiên cứu mới nhất của các chuyên gia ở thư viện Đại học Heidelberg (Đức), nàng Monalisa là nguyên mẫu một người phụ nữ có thật, tên là Lisa Gherardini. Cô là vợ của Francesco del Giocondo, một thương gia tơ lụa giàu có người Florentina (Italy). Những dòng chú thích nguệch ngoạc của Agostino Vespucci - một người bạn của Da Vinci - bên lề cuốn sách ra đời tháng 10/1503 là bằng chứng rõ ràng nhất về thân thế nàng Monalisa.
Trước đó, sử gia nổi tiếng Giuseppe Pallanti cũng đã tìm đến gốc gác của vấn đề và xác định đó là nàng Lisa Gherardini, sinh ngày 15/6/1479 tại Florentine, Italy.
Tuy nhiên, các nghiên cứu của ông lúc đó chưa đủ thuyết phục cho tới khi thư viện Đại học Heidelberg đưa ra được những bằng chứng cụ thể.
Sau bí mật "Nàng là ai?" được giải đáp, hậu thế lại tiếp tục đi tìm câu trả lời cho câu hỏi "Vì sao nàng cười?" về Mona Lisa.
Khuôn mặt nàng Mona Lisa trong tranh khiến người ta không thể đoán định nàng đang cười hay không? Nhìn riêng đôi mắt, họ thấy ánh lên nhiều niềm vui, sự lạc quan, yêu đời. Nhưng nhìn thấp xuống khoé miệng, đôi môi, người ta lại thấy nàng nghiêm nghị đến kỳ lạ. Người ta còn thấy rõ sự hồi hộp, lo lắng trong cái cười “nhếch mép” của nàng. Khuôn mặt Mona Lisa vừa cười, vừa nghiêm nghị đã trở thành đề tài được tranh cãi nhiều trong các cuộc khẩu chiến và bút chiến.
Theo nghiên cứu hiện đại bằng phương pháp nhận diện cảm xúc khuôn mặt trên máy tính, người đẹp của danh hoạ Leonardo da Vinci có 83% hạnh phúc, 9% khinh bỉ, 6% sợ hãi và 2% giận dữ. Một nghiên cứu khác dưới quan điểm lịch sử lại cho rằng, nàng Mona Lisa có nụ cười nửa miệng là do vào thế kỷ XV-XVI, răng của người ta rất xấu nên họ không muốn khoe ra.
ReplyDeleteNhận định – Câu chuyện văn chương
TỪ BÁNH TRÔI NƯỚC ĐẾN RỪNG LAN: ĐI TÌM MONA LISA
Tiêu chuẩn nghiên cứu tiểu sử và phân tích thi văn được tiêu biểu qua vấn đề thơ Hồ Xuân Hương (HXH). Nhà thơ mang tư tưởng cách mạng xã hội và nữ quyền trong thời quân chủ ? Nhân vật lịch sử HXH? "Hiện tượng" HXH? Cái gì là thật sự của HXH? Cái gì đứng ngòai "thi phong" của người phụ nữ ấy? Cái gì có thể kiểm chứng bằng dữ kiện và suy luận dựa trên căn bản khoa học? Cái gì là "ý thích" và phỏng đóan chủ quan của người đọc, hoặc sự bóp méo, xuyên tạc, đánh lạc hướng – tất cả với mục đích gì? Đâu là sự thật?
Đây không phải là những bàn cãi cho vui gọi là "trà dư tửu hậu” trong trò chơi văn chương. Lịch sử và văn học sử là cốt lõi của sự trường tồn văn hóa và dân tộc, trong đó có cả vấn đề đạo đức sáng tác và nghiên cứu. Ngòai ra, trong trường hợp thơ HXH, còn có vấn đề phụ nữ và cải cách xã hội. Lịch sử và văn học sử như dòng nước không thể bị chặt đứt, cần gạch nối giữa xưa và nay.
Lấy thêm một trường hợp khác: Trái tim của Ỷ Lan Thái Phi - người phụ nữ có cơ hội giúp nước vì là vợ và mẹ của vua. Bà còn nổi danh lịch sử vì công đức Phật Giáo. Những giai thọai truyền khẩu cho rằng chính bà là đọan cuối của câu chuyện dân gian Tấm Cám: trong đó bà là người chủ mưu buộc tội Dương Hòang Hậu và gây ra cái chết thảm khốc của nhiều phụ nữ trong cung cấm. Đâu là sự thật? Đâu là cái Tâm – Tấm Lòng Son - của Ỷ Lan?
HXH trộn lẫn với dân gian, uất ức trước bất công xã hội. Ỷ Lan là điểm cao của tổ quốc, đến từ dân gian – cô hái dâu trở thành mẹ và vợ của vua, người phụ nữ nhiếp chính.
Tất cả – chung quanh hai người phụ nữ - Ỷ Lan của thời Lý khi Phật Giáo trở thành Quốc Giáo, hay HXH của nhiều kỷ nguyên sau - đều mang cùng tính cách bí ẩn hay huyền thọai như nụ cười Mona Lisa của danh họa Leonardo de Vinci. Đâu là sự thật? Sự thật trắng, đen, hay màu khói lam? Mona Lisa cười hay không cười? Đâu là TẤM lòng son của cô TẤM?
Tấm lòng son là cái tâm chuyển hóa được định mệnh của Tố Như, là cái neo của vận nước nổi trôi qua hình ảnh người phụ nữ trong thơ HXH. Không phải chỉ hạn hẹp ở nghĩa chữ trinh của cô Kiều. Đâu là tấm lòng son? Bí ẩn của nụ cười Mona Lisa? Từ nước mắt lưng tròng cho quá khứ, đến nụ cười hứa hẹn của tương lai.
Tâm sự của nhà văn khi phải đặt bút xuống, phải đối diện với việc đi tìm sự thật? Gánh văn chương và trách nhiệm về sự thật nặng hơn cái chết.
Trong phạm vi nhỏ bé hạn hẹp của một bài thơ sáng tạo vì ngẫu hứng, tôi trừu tượng hóa và biểu tượng hóa sự việc, hy vọng giúp độc giả tiêu khiển (và suy nghĩ thêm) một cách nhẹ nhàng.
Dương Như Nguyện
Copyright 2012
NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ NỤ CƯỜI MONA LISA CỦA CÔ TẤM
Cô Tấm ơi, cô Tấm ơi
Tôi đã tin cô, ở tuổi nầy
Tôi cho cô trọn trái tim ngay
Tim ngay nên nói lời chân chất
Không phải chuyện đùa, say, tỉnh, say
Cô Tấm ơi, Cô Tấm ơi
Vì sao khóe mắt lệ khoanh tròn?
Có phải ba đào chuyện nước non?
Oán giận ai dày lên phận mỏng?
Hay là trôi nước giữ lòng son?
Cô với Xuân Hương cách biệt nhau
Một bên khí phách giữa cơ cầu
Còn cô, giai thoại rừng Lan tím
Cửa Phật cho Lan đổi sắc màu
Còn tôi, ngòi bút trót cong rồi
Tiếng Việt không dùng, chỉ để chơi
Đùa mãi nay mai tôi thất chí
Vì giận con người lắm đãi bôi
Cô Tấm ơi, cô Tấm ơi
Mới vừa gặp đấy đã chia phôi
Nói cũng như không nói được lời
Mai sau tôi chết, cô đừng khóc
Xin mỉm cho tôi nửa nụ cười
Dương Như Nguyện
Ngày 9 tháng 10. Trang Diển Đàn Việt Thức vừa post bài thơ này, với đường Link Trang Thơ cho “phiên bán 1- Phiên bản gốc”.
Mời các Bạn ghé xem.
TẤM LÒNG SON HAY NỤ CƯỜI MONA LISA CỦA CÔ TẤM.
Tranh và thơ thật hài hòa, nét đẹp của tranh quyện lấy chất thơ. Xem qua tưởng như là giản dị, nhưng cả tranh và thơ đều chất chứa một vẻ đài các , trang nhã...và sâu lắng.
ReplyDeletecx vừa mới đọc và vừa mới cảm nhạn được một ít...
Rất ngưỡng mộ và hân hoan chào đón bạn đến với TRANG THƠ.
cx