Friday, August 26, 2011

Tuổi HOÀNG HÔN


89 comments:

  1. Một bài thơ thật tuyệt!

    Một hơi thơ lạ trong dòng thơ của Khánh Vân.

    ReplyDelete
  2. Cám ơn Tác Giả Khánh Vân !

    Chỉ cần đọc hai câu đầu thì vivu đã trôi về cõi Thơ , tưởng chừng như đã xa - xa lắm ...

    ý tại ngôn ngoại .

    ReplyDelete
  3. KhanhVan oi (xin loi ban cai may lam reo dau dau mat tieu)
    Bai tho KV nhu mot tieng tho dai
    "mau di vang benh bong noi cuoi neo"
    Dung la ai cung co mot thoi thanh xuan day tiec nuoi uoc mo
    "doi yeu thuong con xanh muot tuoi tho",cai tuoi tuong chung nhu lat ca the gioi,doi da va troi,nhung rieng Thth thi thay tuoi hoang hon co nhung cai can phai lam qua,cac ban sao chu ThTh ngay di lam 9,10 tieng,phai di exercise(bac si dan)roi cho bua nau nuong..cung ban ron het ca ngay,lam khi uoc ao them "gio thu 25 "nao do de duoc nghi ngoi them...
    Vay do KV,chia xe voi KV nhe.Than tinh

    ReplyDelete
  4. Xin mạn phép mượn sân Trang Thơ gởi đến các bạn thơ một bài viết mà tôi cho là khá thú vị bởi mấy mươi năm qua vẫn không biết xuất xứ của từ NẪU dùng để nói tới người xứ Bình Định.

    Cũng có thể đã có người biết, nhưng theo thiển ý của tôi thì chắc là đa phần không rõ nguồn gốc.

    Đây là một bài viết theo quan điểm chủ quan có khi không đúng hoàn toàn với sự thật, tuy nhiên nó chỉ mang tính cách là một tài liệu sơ khai để mở rộng sự hiểu biết, không hề có ý thiên vị, dèm pha nào ở đây.

    Xin mời các bạn đọc qua để tìm hiểu thêm.

    ReplyDelete
  5. NGƯỜI XỨ BÌNH ĐỊNH - TẠI SAO ĐƯỢC GỌI LÀ DÂN "NẪU"?

    Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú Yên bây giờ).

    Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.
    Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man.

    Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu.

    Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm...

    ReplyDelete
  6. Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ.

    Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.

    Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:

    Ví dụ:
    -Mất chồng như nậu mất trâu
    Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm.
    - Tiếc công anh đào ao thả cá
    Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.
    - Ai về nhắn với nậu nguồn
    Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.


    Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.

    Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”.

    Và thế là “Nậu” được thay bằng "Nẩu".

    Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất:

    Ai về sông núi Phú Yên
    Cho nẫu nhắn gởi nỗi niềm nhớ quê.

    ReplyDelete
  7. Trước khi đề cập đến ý nghĩa bài thơ cao siêu đến bực nào thì PC xin nói về bức hình minh họa của trang chủ. Thật là công phu suy nghĩ và tạo ra được bức hình nầy, vì đọc qua bài thơ từng câu, từng câu, chúng ta khó mà hình dung ra một hình tượng rõ ràng để chọn hình. Nầy nha các bạn thử đọc từng câu:

    Dòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ,
    Đố ai vẽ được hình trong nỗi nhớ !

    Sóng thời gian làm cay mắt người xưa
    Theo kịp sóng thời gian cũng là chuyện ..."vi ba"

    Và từng câu, từng câu tiếp theo các bạn sẽ lùng bùng trí não ngay! Nhưng toàn bài thơ toát lên được nỗi buồn tuổi xế chiều của một tâm hồn nhiều trắc ẫn, lắm "bụi muộn phiền". Vậy mà trang chủ đã tạo được bức hình, nhìn vào từng góc cạnh chúng ta sẽ nhận ra từng ý của bài thơ, và cuối cùng nhìn tổng thể là một bức tranh chiều buồn man mác.

    PC phục nhất là tạo được "bụi thời gian" rơi trong khung trời chiều !

    Làm bức hình nầy theo PC thì trang chủ phải mất ít nhất là 3 giờ "brainstorm" cao độ! (thế mới hiễu vì sao đau đầu triền miên)

    Cả hai, bài thơ và bức hình minh hoa, thật là tuyệt kỷ ! thán phục!

    Cám ơn những say mê của nghệ nhân mà chúng ta có được những tác phẩm tuyệt vời!

    ReplyDelete
  8. Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”.

    Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi.

    Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”.

    Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”.

    ReplyDelete
  9. Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là "đại từ nhân xưng" nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều.
    Ví dụ thay vì hỏi "Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy?" thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là "Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy?" hay "Cái nhà này là của họ" thì dân Nẫu sẽ nói là "Cái nhà nhà này là của nẫu".

    Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói "Vào tận trong đó" thì nói là "Dô tuốt trỏng" hay hỏi "vậy hả?" thì hỏi là "dẫy na?", "dẫy ngheng" (vậy nghen hay thế nhé), "dẫy á" (vậy đó), "chu cha wơi" (trời đất ơi) v.v...

    ReplyDelete
  10. Một nguồn tài liệu khác.

    ....Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị thì vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác.
    Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”.
    Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi...
    Vì sao "quê", vì ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không còn ai dùng. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: "Nậu nguồn" chỉ nhóm người trên rừng, "Nậu nại" chỉ nhóm người làm muối, "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá, "Nậu rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, "Nậu cấy" chỉ nhóm người đi cấy mướn, "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm... mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, thì cái “nậu + ấy= Nẫu”.

    ReplyDelete
  11. Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa.

    Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn...khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác.
    Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:

    Thương chi cho uổng công tình
    Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ.

    ReplyDelete
  12. Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì:
    “nẫu cừ thì kệ nẫu cừ,
    nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng”.


    Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch...
    Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình.

    Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc.
    Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế.
    Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam.
    Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy),

    Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”.
    Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn..................

    ReplyDelete
  13. Trong những bài thơ của Khánh Vân mà VK có dịp được đọc trên Trang Thơ này, có lẽ bài thơ Tuổi HOÀNG HÔN của KV hôm nay, mang tâm sự u hoài của Tác giả nhiều hơn hết. Những lời khen tặng của các bạn Thơ dành cho KV và Trang chủ về bức minh họa quả không ngoa chút nào . VK thấy không còn viết gì thêm nữa. Chỉ biết "NGẬM NGÙI" cho những ai khi đến Tuổi VỀ CHIỀU như VK .

    Chúc mọi người vui vào cuối tuần .

    ReplyDelete
  14. KV có nói là bài thơ mới làm không được vui, thì Tuổi Hoàng hôn đúng như vậy mà. Nhiều lúc SM nhớ rõ và đầy ắp những kỷ niệm thiệt xa xưa, nhưng hỡi ôi có bao nhiêu lần vừa từ trên phòng bước xuống nhà dưới định lấy cái gì đó rồi nghĩ mãi chẳng ra, quên mất tiêu một hồi mới nhớ. Có ai đồng bệnh quên trước quên sau như thế này không? Tuổi Hoàng hôn là tuổi sắp già, hay xế bóng hay đã già.., sao SM thấy trong Trang thơ mình tâm hồn ai cũng còn trẻ quá,tiếng cười đùa vui giòn tan, rất giỏi thích nghi với hoàn cảnh của riêng mình.Thời gian vô tư chạy qua vù vù, không chừa ai hết, mình già nhưng còn có người già hơn mình mà phải không các bạn ?

    ReplyDelete
  15. thân chào các bạn thơ
    Khánh Vân cám ơn những lời khen của các bạn . Thật ra , khi trang trải nỗi niềm của mình, KV nghĩ sao viết vậy, không ngờ lại được các bạn thơ yêu thích. Đúng như huynh PC phân tích, bức hình minh họa của SM thật tuyệt vời,
    lột hết được cái sâu lắng bên trong nội tâm của tác giả. Khánh Vân cám ơn SM thật nhiều nghen !
    Thiên Thanh ơi !Nghe Th. Th thật bận rộn và thèm có giờ thứ 25 nữa chứ . Chứng tỏ Th.Th còn khoẻ và
    còn lạc quan yêu đời lắm đó . Điều này thật đáng mừng , đúng không Th. Th ?
    Thân chào bạn S@! Thơ của S@ và NT lâu nay KV rất thích, nay thơ của Vân được S@ khen là KV biết mình có nhiều tiến bộ rồi đó.
    Huynh VIVu và huynh VK ơi ! Tuổi xế chiều thường có nhiều phiền phức xảy đến nhất là sức khoẻ. Vân có hai anh trai còn ở VN, tình hình sức khoẻ của hai anh ấy dạo này cũng tệ rồi. Mỗi lần phone về nghe hai anh than thở thấy mà thương. Sau đó mấy anh em lại nhắc lại thuở ấu thơ nghe thấy vui rồi thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất , một lúc nào đó " ánh chiều buông lịm tắt " sẽ đến với người thân , với chính ta. Thật lòng không vui gì khi nghĩ đến điều này
    KV thân chúc các bạn thơ luôn vui khoẻ và vạn điều an lành
    KV

    ReplyDelete
  16. Thiệt ra SM cũng không biết nhiều về từ địa phương "NẪU" của vùng Bình Định, Phú Yên, nay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu " Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ" nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy. Nếu nói về " Người xứ Nẫu", thế thì có đúng không khi chữ ấy vì là "đại từ nhân xưng" nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều ? Ngôn ngữ địa phương nào cũng gắn chặt với tình yêu thương đất nước con người nơi đó, chất giọng của từng xứ sở thì SM thấy khác nhau rất nhiều, dân BMT là nghe và hiểu được nhiều ngôn ngữ so với những tỉnh lỵ khác, có lẽ nhờ người dân tứ xứ về sinh sống càng ngày càng đông, tạo thành một xã hội với nền văn hóa đa dạng cho vùng trù phú cao nguyên.

    ReplyDelete
  17. thân chào các bạn thơ

    ReplyDelete
  18. Hẳn NT cũng đồng ý khi suy nghĩ làm một bài thơ mà mình chỉ hiểu một chiều nào đó cho riêng mình, còn người khác đọc bài thơ có khi lại hiểu theo một chiều hướng khác mà chính tác giả cũng ngạc nhiên không ngờ. Hôm nay trường hợp SM cũng vậy, đọc bài thơ man mác buồn của Tuổi Hoàng hôn, dòng thơ mang ý lạ khác với thường ngày của KV, SM đọc đi đọc lại vài lần, sao cho hòa mình với những tâm tư chia sẻ, rồi tính tới chuyện của mình với những hình ảnh cần thiết phối hợp khi minh họa một bài thơ. Tiếc là kho hình riêng của SM không đủ để đáp ứng nên dành thêm thời gian mà search trên mạng cho tới khi chọn được hình ưng ý. Cám ơn PC đã khen tặng nhưng làm ơn cất đi dùm chữ " tuyệt kỷ" nhé,thấy nhận xét về tấm hình mà SM đây cũng giật mình luôn vì đâu có "tạo" được bụi thời gian mà chỉ chọn lựa và cảm nhận được đây là cảnh sắc tương đối phù hợp với ý thơ buồn tuổi xế chiều,khi ánh nắng tàn đang dần buông lịm tắt.

    ReplyDelete
  19. nay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu
    " Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ"
    nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy.

    Gì mà không biết? Cứ lục lại ngăn tủ kỷ niệm từ thuở tuổi bình minh là thấy liền chớ khó gì?

    ReplyDelete
  20. Có bao giờ Bạn say ? Cái lâng lâng nhè nhẹ kéo dài ...

    Hơi Thơ của "Tuổi Hoàng Hôn" và hình minh họa công phu - sự chọn lựa của màu sắc ở một "sát na của trực giác " đậm hay nhạt hơn một chút cũng không được ,một cái click của con chuột có giá trị như một tiếng búa của quan tòa ! Xong !
    Là thế đấy !

    Tự nhiên một bài sưu khảo về chữ "Nẫu" lạc loài - làm mất hứng !!!!!!

    Giận thì giận mà thương thì thương !
    Vivu nghĩ sao nóoi vậy !!!@

    ReplyDelete
  21. Huynh Vi Vu và huynh VK thân !
    Tuổi xế chiều lắm điều rắc rối , nhất là sức khoẻ. Vân bây giờ cũng giống như SM vậy , hay quên lắm. Biết tuổi già đang dần đến. Nhìn các anh trai của Vân sức khoẻ đang giảm dần Vân thấy thật thương. Mỗi lần phone về VN nói chuyện với các anh , nghe các anh than thở Vân thấy lòng thật xót xa. Anh em nhắc nhau những kỷ niệm hồi còn bé , nghe thật vui thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất, một lúc nào đó "ánh chiều buông lịm tắt". Điều đó xảy đến thì thật không vui gì.
    KV luôn mong chúng ta mãi mãi vui khỏe và an lành

    ReplyDelete
  22. SM ơi!
    Tối nay Vân loay hoay với những comments, viết rồi , gửi đi nó chẳng chịu vào, đến khi viết lại cái mới , cái cũ lại hiện ra làm Vân cười vui !Nói đi nói lại hoài nghe không buồn cười sao được ??
    Cám ơn bạn S@ với tài liệu về từ "Nẫu "Lâu nay Vân nghĩ đó là từ dùng cho những người miền Trung mình, ám chỉ về những người keo kiệt bủn xỉn. Dẫu sao biết thêm cũng là điều hữu ích, không sao cả huynh Vi Vu nghen !

    ReplyDelete
  23. Cám ơn bạn thơ Vivu đã có ý nhắc nhở.

    Thiệt ra tui không có khiếu bình thơ của người khác, đôi khi những câu chữ của mình viết ra trong một phút bất chợt hiện về trong đầu rồi sau đó đọc lại chưa chắc đã rõ tường tận.

    Thì cũng muốn góp mặt cùng các bạn cho vui nên tình cờ lang thang trên mạng thấy một bài viết cũng hay hay nên post lên để cùng nhau tìm hiểu sự đời.

    Ý chỉ thế thôi! Mong bạn miễn chấp!

    ReplyDelete
  24. Một bài thơ đã làm NT sững sờ khi mới đọc tựa đề " TUỔI HOÀNG HÔN " ! Bao nhiêu tuổi thì sẽ bắt đầu vào cái tuổi ấy bạn thơ Khánh Vân Mây Lành ơi ? Và rồi đến tuổi ấy dường như là chuỗi ngày sống lại với nhớ thương quá khứ
    Lạ thật, khi còn trẻ mình lại mong mình già (!), đến khi tuổi già đến thì lại ao ước mình về lại tuổi thanh xuân

    ReplyDelete
  25. Sương Mai à,
    Nghệ thuật đôi khi thành tuyệt phẩm mà tác giả không biết mình làm sao được như vậy ! Giá trị hay không là kết quả cuối cùng của những người thưởng lãm cho biết, còn cách làm thế nào thì ít ai làm lại được cho dù biết tác giả đã làm gì. PC đã làm việc và trao đổi với SM nhiều, nhưng ít khi khen như vậy (có khi còn chê nữa) nhưng trong tấm hình nầy SM đã chọn một hình rất thích hợp với bài thơ (việc nầy không dễ dàng đâu phải không ?) cho dù là...tình cờ.

    Riêng bài thơ của KV thì PC khen là vì toàn bài thơ mỗi câu mang một sắc nét xem lẫn giữa cái thực và cái không thực trong từng câu, các bạn thử đọc lại lần nữa xem !

    Cho dù KV không cố ý làm như thế mà nó xuất phát từ vô thức rồi viết ra, thế nên nó đồng nhất mang một ý đó là "cái chập chờn giũa thực và ảo" hay nói khác hơn là CÓ VÀ KHÔNG ! (các bạn lại mĩm cười PC rồi chứ gì?)

    Thỉnh thoảng PC cũng bắt gặp những vần thơ như thế rải rác ttrong vườn thơ VN chúng ta, đôi khi người đọc đọc xong thì không gây một ấn tượng gì trong trí và không biết tác giả muốn nói gì !! Nhưng mà tác giả có muốn nói điều gì đâu?
    Tuổi hoàng hôn nên cái gì cũng là thực và mộng hết phải không KV?
    Đố ai vẽ được:
    "Mầu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo"!

    Thế mà 12 câu góp thành một bài thơ, đó là ký do PC khen tặng !

    ReplyDelete
  26. NT thích câu thơ này của bạn thơ Khánh Vân Mây Lành nhất :
    Tuổi hoàng hôn dấu buồn trong tiềm thức
    Đến một ngày mà bóng ngã chiều tà rồi mà còn buồn thì quả là buồn thật, lại còn phải Dấu một nơi mà không ai thấy nữa " Tiềm thức " - thế thì chỉ có riêng mình ôm nỗi buồn mà thôi và nỗi buồn sẽ tha hồ trong cõi riêng tư ấy đến sầu ngập lòng !
    Nhìn hình minh hoạ, NT đoán là Tuổi hoàng hôn sẽ ... vàng như thế ?!
    Mai em vàng Tuổi Hoàng Hôn
    Chẳng còn mây biếc ru hồn mộng mơ

    ReplyDelete
  27. Cách đây 50 năm ,khi còn là một cậu bé miền núi ,chỉ biết có núi rừng và những dòng suối róc rách …biết gì về sông ? biết gì về biển ?

    Có một bài ca còn ấn tượng đến bây giờ …
    “ Chiều rơi …bên giòng sông Cửu Long …nghe một cơn ước mơ …ới …chiều …”

    Đi tìm một phân tích ư ?
    Ở vào một thời điểm mà thiên hạ còn bàn cãi về “Nghệ thuật vị nghệ thuật ,hay là nghệ thuật vị nhân sinh ? ..”

    40 năm sau , dong thuyền trên sông Hậu sông Tiền ,tìm được gì trên giòng sông cuồn cuộn chảy , nước đục phù sa …
    Được Huynh PC nhắc nhở một không gian giữa Thực và Ảo ,giữa Có và Không …
    EUREKA ! … là thế đấy !

    Người đời thường nghĩ tới Vô Thường như là điều mất mát ,nhưng chính Vô Thường cũng là điều hạnh ngộ - như cô bé lý lắt nhà bên một hôm trở thành người yêu …tháng sáu !!!

    Thơ - Tuổi Hoàng hôn – cũng đưa vivu về cõi ..mộng - giữa thị thành bát nháo hôm nay – tìm được một khoảng không gian …của một thủa chưa có ánh đèn neon …

    ReplyDelete
  28. Chào các bạn,
    Thường thì cứ sau một chuyến đi xa về, người luôn mệt mõi vì công việc và lu bu điều chỉnh thói quen thường ngày..hôm nay cũng là thông lệ đó.

    Vào lại Trang Thơ, một lý thú tình cờ với bài thơ Tuổi Hoàng-hôn của Khánh Vân..là nhìn ra được sự "kết hợp tài tình giữa Thơ và Họa". Đọc bài thơ xong, đọc lại đôi lần...người đọc (QH) cãm nhận được một bức tranh được Khánh-Vân tổ vẻ, nắn nót như người họa sỹ tài danh, đã nói lên được cái tâm trạng rất là Hoàng-hôn.

    Nằm bên cạnh. "Minh họa" của Trang Chủ làm bài bài thơ trở thành "TUYÊT PHẨM GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HỌA."

    Mời các Bạn cùng đọc một nghiên cứu về đề tài này.
    Thật ngưỡng mộ.
    QH

    SỰ KẾT HỢP, GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HOẠ
    Trong quá trình phát triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ cũng có tác dụng biểu hiện như thơ ca. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu và khuyết điểm khác nhau, thơ mạnh về biểu hiện thế giới nội tâm, hoạ mạnh về tính hình ảnh. Từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa thơ và hoạ, sáng tạo ra loại thơ đề tranh (đề hoạ thi) để tăng cường ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của hai loại hình nghệ thuật này. Thơ đề tranh xuất hiện từ thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, ban đầu nó tồn tại dưới dạng thơ đề trên các tấm bình phong, thơ đề trên quạt. Dữu Tín (513 – 581) được xem là người tiên phong của loại thơ đề tranh với bài 25 bài Vịnh hoạ bình phong thi. Đến thời Đường, thơ ca và hội hoạ Trung Quốc phát triển cực thịnh, xuất hiện rất nhiều bài thơ bình phẩm, vịnh tán tranh. Chỉ có điều khi ấy người ta chưa đề thơ thẳng lên tranh, mà thơ và hoạ lúc này vẫn là hai tác phẩm tách biệt nhau về hình thức không gian. Theo như Thẩm Thúc Dương, thì Tào Hy thời Tam Quốc là người đầu tiên làm thơ đề tranh Thuỷ mặc trúc thụ thạch.

    Thời Đường, tranh sơn thuỷ và tranh hoa điểu có bước phát triển đột biến. Theo Phó Toàn Tông và Trần Hoa Xương, sự phát triển của tranh sơn thuỷ là kết quả ảnh hưởng của thơ sơn thuỷ, còn sự phát triển của tranh hoa điểu là kết quả ảnh hưởng từ thơ vịnh vật. Tranh sơn thuỷ thời Đường sùng thượng loại thuỷ mặc (trước đó người Trung Quốc chuộng màu xanh lục), ưa phong cách phóng khoáng tự nhiên (trước đó người ta chuộng sự tỉ mỉ, đẹp đẽ) là do ảnh hưởng thẩm mỹ tự nhiên, chân tình thực cảm của thơ Đường. Còn tranh hoa điểu thời Đường không trọng không gian - thời gian vật lý mà trọng không gian - thời gian tâm lý, không trọng việc miêu tả toàn diện, mà trọng miêu tả bộ phận cũng là do ảnh hưởng của thơ Đường. Thậm chí, màu sắc, đường nét, bố cục kết cấu của tranh thời Đường cũng chịu ảnh hưởng từ thơ Đường.

    Nói về tranh hoa điểu (hoa điểu hoạ), thì thi hào Vương Duy được xem là người có những đột phá lớn. Ông vẽ hoa không chú ý tới mùa tự nhiên của hoa, cho nên cứ vẽ chung đào - hạnh - phù dung - sen là những loài hoa khác mùa với nhau vào chung một bức; hay như tác phẩm Viên an ngoạ tuyết đồ vẽ chuối chung với tuyết. Đó chính là sự đột phá của Vương Duy về thời gian và không gian, bất chấp mùa màng và địa vực khác nhau, nhằm biểu hiện không gian – thời gian tâm lý chứ không phải không gian - thời gian vật lý tự nhiên, mục đích là tạo ra một ý nghĩa mới cho tác phẩm. Đây thực tế là sự thi hoá, văn học hoá hội hoạ, bởi vượt qua không gian thời gian vật lý là thủ pháp mà thơ ca đã sử dụng từ lâu. Các nhà thơ thường kết hợp những cảnh vật khác nhau về không gian và thời gian về một chỗ, chẳng hạn: “Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân” (Cây xuân nơi Vị Bắc, mây chiều ở Giang Đông).
    ...

    ReplyDelete
  29. ...Màu sắc và đường nét là ngôn ngữ, chất liệu đặc trưng của hội hoạ, nhưng trong thơ Đường cũng có rất nhiều câu thơ hay là do kết hợp, so sánh các màu sắc và đường nét tạo nên.

    Ví dụ:
    - Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu
    Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên (Đỗ Phủ)
    (Tản Đà dịch: Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc/ Một đàn cò trắng vút trời xanh)
    - Giang bích điểu du bạch
    Sơn thanh hoa dục nhiên (Đỗ Phủ)
    (Sông biếc chim trắng lượn/ Núi xanh hoa đỏ khoe)
    - Phi lưu trực há tam thiên xích
    Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên (Lý Bạch)
    (Tương Như dịch: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước/ Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)

    Thời Tống, tính thơ trong họa, tính họa trong thơ được nhiều người chú ý. Trong tác phẩm Tuế hàn đường thi thoại, Trương Giới đã bình luận hai câu thơ: “Tái vân đa đoạn tục, biên nhật thiểu quang huy” trong bài thứ 18 của chùm 20 bài thơ Tần Châu tạp thi của Đỗ Phủ là: “hai câu thơ đã vẽ nên phong cảnh biên tái” (thử lưỡng cú hoạ xuất biên tái phong cảnh dã). Ngoài ra, Dương Vạn Lý, Phạm Thành Đại sau đó cũng nói đến tính hoạ trong thơ. Nổi tiếng nhất là lời bình của Tô Đông Pha về Vương Duy (hiệu Ma Cật) – nhà thơ kiêm hoạ sĩ tài danh thời Thịnh Đường:

    “Đọc thơ Ma Cật, thấy trong thơ có hoạ. Xem tranh Ma Cật, thấy trong tranh có thơ. Thơ rằng: Khe xanh đá trắng lộ, Ngọc xuyên lá đỏ thưa, đường non mưa chẳng đến, ướt áo màu xanh xưa”.

    Tô Đông Pha nhìn thấy đặc điểm của hội hoạ trong thơ Vương Duy và nhìn thấy đặc điểm của thơ trong tranh Vương Duy. Đó chính là sự thâm nhập vào nhau giữa thi và hoạ như lời Tiền Chung Thư nói ở trên. Nói cách khác, đó là sự dung hợp giữa thơ và hoạ thơ trong họa, họa trong thơ hoặc: “thi hoạ nhất trí”, “thi hoạ nhất luật”, “thi họa hợp bích”.

    Sau khi Tô Đông Pha mất khoảng năm thế kỷ, Đường Thuận Chi thời Minh đã giải thích quan niệm “thi trung hữu hoạ” khi bàn về tác phẩm Trường giang vạn lý đồ quyển của hoạ sĩ Chu Thần đồng thời với ông: “Thơ Thiếu Lăng (tức Đỗ Phủ) viết: Hoa Di sơn bất đoạn, Ngô Thục thuỷ thường thông (Hoa Di núi bất tận, Ngô Thục sông mênh mông). Chỉ hai câu mà tả được phong cảnh vạn dặm của dòng Trường giang. Thật đáng gọi là trong thơ có hoạ vậy”.

    Từ thời Tống và Nguyên về sau, phong trào sùng thượng thơ và hoạ lên cao, nhiều nhà thơ kiêm hoạ sĩ, nhiều hoạ sĩ thư pháp kiêm nhà thơ, thơ đề hoạ phát triển mạnh mẽ, tạo thành tình hình: Thi – Thư - Hoạ tam hợp. Thời Tống, phong trào vẽ tranh thủy mặc “tứ quân tử”: Mai - Lan - Cúc - Trúc phát triển rất mạnh, theo như sách Tuyên Hoà hoạ phổ cho biết thì thời kỳ này có đến hơn một nửa số hoạ sĩ kiêm văn nhân. Tô Đông Pha là thi hào số một thời Tống, nhưng ông cũng là một hoạ sĩ chuyên vẽ trúc và mai thủy mặc, ông còn dùng tranh để “tải đạo” (chú ý đến tác dụng xã hội của hội hoạ) và thường ví mình với trúc (tượng trưng cho bậc quân tử thanh cao), quan niệm: “thi hoạ bản nhất luật” (thơ họa vốn như nhau). Số tranh Tô Đông Pha để lại không nhiều, nhưng quan niệm, chủ trương của ông về hội hoạ đương thời có ảnh hưởng rất lớn.

    Trong quá trình sáng tạo, các thi nhân cũng như các họa gia đều muốn mở rộng phạm vi, biên độ của thơ và tranh, thậm chí cái này còn muốn thâm nhập, dung hợp cái kia. Như Tiền Chung Thư viết: “Tất cả nghệ thuật đều dùng chất liệu nào đó làm phương tiện thể hiện. Mà tính chất cố hữu của chất liệu, một mặt tiện lợi cho việc thể hiện, nhưng đồng thời mặt khác cũng phát sinh những trở ngại hạn chế việc thể hiện ấy. Vì thế các nhà nghệ thuật luôn luôn muốn tìm cách vượt qua những trở ngại hạn chế, không chịu sự trói buộc hoàn toàn vào chất liệu. Ví dụ như chất liệu của hội hoạ là màu sắc và đường nét có thể thể hiện những hình ảnh cụ thể, nhưng những hoạ sĩ lớn không chỉ dừng lại ở việc thể hiện những hình ảnh cụ thể như vậy, mà họ còn muốn “tả ý”; chất liệu của thơ và ngôn từ, dùng để trữ tình tả ý, nhưng những nhà thơ lớn không chỉ muốn dừng lại ở việc “ngôn chí”, mà họ còn muốn thơ phải có cả tác dụng miêu tả hình ảnh như hội hoạ để người đọc thưởng thức. Thơ và hoạ đều có ý đồ thâm nhập lẫn nhau” (Trung Quốc và hoạ Trung Quốc).

    ...

    ReplyDelete
  30. ...Hội hoạ không những chỉ kết hợp với thơ ca, mà rất nhiều khi còn kết hợp với thư pháp, bởi thư pháp cũng là một loại nghệ thuật đặc biệt của người Trung Quốc. Chữ viết lúc này không chỉ là “cái vỏ của tư duy”, không chỉ có chức năng chuyển tải thông điệp bình thường, mà nó còn có chức năng thẩm mỹ tự thân. Cho nên thơ đề trên tranh cũng thường được viết bằng loại chữ nghệ thuật (tức thư pháp). Trong một tác phẩm hội hoạ có cả ba nghệ thuật: thơ ca, hội hoạ, thư pháp và chúng hoà quyện, bổ sung, thống nhất với nhau, chúng có tác dụng làm tăng ưu điểm đồng thời làm giảm khuyết điểm cho mỗi loại nghệ thuật. Hoạ sĩ đương đại Ngô Tác Nhân nói: “thơ cũng là hoạ, hoạ cũng là thư, ba thứ ấy đều có diện mạo riêng, mà cũng có những điểm tương ứng. Tuy chúng bổ sung cho nhau, nhưng mỗi thứ đều có một hình thức độc lập”. Tô Đông Pha bình luận tranh vẽ trúc của Văn Đồng là: “Thơ không thể nói hết thì thêm thư, thêm hoạ”, Dương Công Viễn thì nói: “Cảnh khó vẽ thì lấy thơ mà bổ khuyết, thơ không nói hết ý thì lấy hoạ mà bổ sung”, thi nhân Ngô Long Hàn lại nói: “Cảnh khó vẽ thì thêm thơ, lời khó diễn tả thì thêm hoạ”
    Nếu thơ kết hợp với một nội dung, một nghệ thuật nào khác sẽ tạo ra đặc tính tương ứng cho thơ. Ví dụ thơ thiên về những nội dung lịch sử thì có loại “thi sử”; còn thơ gắn với họa, giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét thì tạo thành loại “thi hoạ”. “Thi hoạ” chính là khái niệm do Thiệu Ung thời Bắc Tống sáng tạo ra, trong bài Thi hoạ ngâm, ông viết: “Hội hoạ sở trường tả vật, chuyển tải màu sắc. Màu sắc đạt đến mức điêu luyện thì hình ảnh của vạn vật tất sẽ hiện ra. Thi hoạ giỏi tả vật và cũng giỏi chuyển tải tình cảm. Tình cảm đi vào câu thơ hay thì tình của vạn vật sẽ hiện ra”. Quan niệm “tình cảnh kiêm dung” này còn được Tư Không Đồ thời Vãn Đường nói thêm trong thư gởi cho Cực Phố: “Dung Châu nói rằng; Cảnh của nhà thơ như ngọc Lam Điền toả sáng, chỉ có thể ngắm chứ không thể đặt trước mắt cho thấy được. Đó chính là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, khó có thể nói rõ được”. Tính hoạ trong thơ mà Tư Không Đồ nói, chính yếu là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, con người chỉ có thể cảm nhận nó bằng cách tưởng tượng chứ không thể ngắm nó rõ ràng như ngắm một bức tranh bằng thị giác.

    Nhà thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn cố gắng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ nhằm tái hiện lại hình ảnh sự vật sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến cái thần, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh. Cho nên trong thơ luôn có hai phần: tình và cảnh, mà người ta thường dùng cảnh để ngụ tình. Bởi vậy kết cấu của một bài thơ bát cú thời Đường thường là phần trước tả cảnh, phần sau tả tình; trong đó phần tả cảnh rất giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét khiến người đọc như thấy trước mắt hiện lên một bức tranh sống động. Ví dụ bài Đăng cao quen thuộc của Đỗ Phủ:

    Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
    Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
    Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
    Bất tận Trường giang cổn cổn lai
    Vạn lý bi thu thường tác khách
    Bách niên đa bệnh độc đăng đài
    Gian nan khổ hận phồn sương mấn
    Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.

    (Nam Trân dịch: Gió gấp trời cao vượn nỉ non/ Bến trong cát trắng, lượn chim cồn/ Rào rào lá trút rừng cây thẳm/ Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn/ Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não/ Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn/ Gian nan khổ hận đầu thêm bạc/ Quặt quẹo đành kiêng chén giải buồn).
    ...

    ReplyDelete
  31. ...Rõ ràng trong bài thơ trên bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh, còn bốn câu thơ sau chú ý biểu hiện tình cảm. Nhưng cũng có khi trong một bài tám câu thì có tới sáu câu tả cảnh, còn hai câu cuối tả tình, như kiệt tác Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:
    Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
    Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
    Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
    Bạch vân thiên tải không du du
    Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
    Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
    Nhật mộ hương quan hà xứ thị
    Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
    (Tản Đà dịch: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu/ Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ/ Hạc vàng bay mất từ xưa/ Nghìn năm mây trắng bây giờ vẫn bay/ Hán Dương sông tạnh cây bầy/ Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non/ Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai).
    Trong khi đó, ở thể tứ tuyệt, tình và cảnh thường hoà trộn vào nhau, ít khi tách biệt rõ như ở thể bát cú. Ví dụ bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch:
    Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
    Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
    Cô phàm viễn ảnh bích không tận
    Duy kiến trường giang thiên tế lưu.
    (Ngô Tất Tố dịch: Bạn từ lầu Hạc lên đường/ Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng/ Cánh buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).
    Bài thơ tả cảnh tiễn đưa mà hiện lên như một bức tranh đầy hình ảnh: cố nhân, Hoàng Hạc lâu, yên hoa, cô phàm, bích không, trường giang.
    Gợi hình, liên ảnh là đặc tính của thơ ca nói chung, chứ không riêng có ở thơ ca Trung Quốc. Ví dụ một bài haiku của Hài thánh Basho ở Nhật thế kỷ XVII (bản dịch của Nhật Chiêu):
    Ao cũ
    Con ếch nhảy vào
    Vang tiếng nước xao.
    Hoặc một bài Sijo Ngưỡng đình đoản ca của nhà thơ Triều Tiên thế kỷ XVI là Song Sun:
    Hoàng hôn chim về tổ
    Trăng non mọc đằng đông
    Trên chiếc cầu cô độc
    Một thiền sư thong dong
    Ngôi chùa nơi nào nhỉ?
    Chỉ nghe vẳng tiếng chuông.
    Hay bài bát cú Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan ở Việt Nam thế kỷ XIX:
    Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá lá chen hoa
    Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà
    Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Dừng chân đứng lại trời non nước
    Còn mảnh tình riêng ta với ta.
    Chính tính chất giàu hình ảnh, đường nét đã khiến cho thơ ca gần với hội hoạ. Nhiều bài thơ đã được những hoạ sĩ sau này chuyển thể thành các bức tranh đặc sắc. Dù rằng hội hoạ khó thể hiện được “tiếng nước”, “tiếng chuông”, hay nỗi “nhớ nước”, “thương nhà” trong thơ, nhưng điều đó cũng chứng minh rằng ranh giới giữa thơ ca và hội hoạ chưa bị xoá nhoà. Hay nói cách khác, điều đó nói lên sự kỳ diệu của thơ ca.
    ...

    ReplyDelete
  32. ...
    THƠ ĐỀ HOẠ Ở VIỆT NAM

    Ở Nhật Bản trước thế kỷ XX, hội hoạ phát triển mạnh với những tên tuổi lẫy lừng. Ví dụ hoạ sĩ sơn thuỷ Sesshu Toyo (1420 – 1506) được xem là Leonardo da Vinci của Nhật Bản, rồi từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX là thời hoàng kim của tranh khắc gỗ với các hoạ gia nổi tiếng: Harunobu, Utamaro, Sharaku, Hokusai, Hiroshige. Ở Triều Tiên, thế kỷ XVIII – XIX cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của hội hoạ với nhiều tên tuổi vang dội như: Kim Hong Do, Kim Duk Sin, Yu Suk, Sin Yun Pok, Kim Jun Kun…
    Tuy loại thơ đề hoạ ở Nhật Bản và Triều Tiên không phát triển mạnh mẽ bằng Trung Quốc, nhưng vượt hẳn so với Việt Nam. Bởi ở Việt Nam từ thế kỷ XIX về trước, thơ ca phát triển rất mạnh, nhưng riêng hội hoạ, thư pháp lại gần như không khởi sắc, dường như không có hoạ sĩ lớn nào mà chỉ có các “thợ vẽ” với loại tranh dân gian kiểu Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng… Do vậy loại thơ đề hoạ ở Việt Nam chỉ xuất hiện rải rác, chẳng hạn bài tứ tuyệt Đề Bá Nha cổ cầm đồ (Đề bức tranh Bá Nha gảy đàn cầm) của Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV:
    Chung Kỳ bất tác chú kim nan
    Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
    Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ
    Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn
    (Nguyễn Khuê dịch: Vàng đúc Chung Kỳ có dễ sao/ Một mình dưới nguyệt gảy đàn dao/ Đêm thanh trời mát xanh như ngọc/ Lạnh lẽo chằm xa tiếng hạc nào).
    Hay bài bát cú Đề tranh Tố nữ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
    Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
    Chị cũng xinh mà em cũng xinh
    Đôi lứa như in tờ giấy trắng
    Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
    Xiếu mai chi dám tình trăng gió
    Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
    Còn thú vui kia sao chẳng vẽ
    Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
    Sang thế kỷ XX, hội hoạ Việt Nam phát triển khá mạnh với nhiều tên tuổi lớn, nhưng lúc này thơ mới đã chiếm chỗ của thơ cũ, thơ mới và hoạ mới tồn tại theo khuynh hướng độc lập nên loại thơ đề hoạ ở Việt Nam cũng không có duyên phát triển. Những bài như chùm Đề bốn bức tranh (Cây thông, Diều hâu đậu đỉnh núi, Mai nở dưới trăng, Rặng liễu) của Trần Tuấn Khải đầu thế kỷ XX quả thực không nhiều. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bài tứ tuyệt Rặng liễu:
    Nước nước non non khéo hữu tình,
    Rèm thưa khép mở cánh ba sinh,
    Đêm xuân trăng gió lòng tơ vướng,
    Trong kiếp phồn hoa hỏi có mình?
    Những viện dẫn trên đây cũng cho thấy, ở Việt Nam vắng bóng loại thơ của hoạ sĩ cũng như không thấy sự xuất hiện loại tranh của văn nhân, tuy nhiên thơ đề hoạ vẫn tồn tại dù khá hiếm hoi. Có thể nói hội hoạ ở Việt Nam trước thế kỷ XX không phát triển dẫn đến thơ đề hoạ ở ta cũng yếu, cho nên các nhà thơ Việt Nam đã phải đề thơ lên tranh của nước ngoài (Trung Quốc) như trường hợp của Nguyễn Trãi, Trần Tuấn Khải hoặc đề thơ lên tranh dân gian như trường hợp của Hồ Xuân Hương, Phạm Thái. Thậm chí chúng tôi còn cho rằng thực chất của những bài thơ vừa dẫn trên là loại thơ vịnh hoạ (thơ ở ngoài tranh), chứ không phải thơ đề hoạ (đề thơ trực tiếp lên tranh, thơ trở thành một bộ phận gắn liền với tranh).

    Cũng do vậy, thơ đề hoạ (hay nói đúng hơn là thơ vịnh hoạ) ở Việt Nam thiên về biểu hiện tư tưởng tình cảm mà người sáng tác đã “mượn” bức tranh như một cái “cớ” để bộc lộ nỗi niềm của mình hơn là để “bổ khuyết” cho tranh.

    * Chú thích:

    - Những bài thơ, đoạn trích trong bài trên nếu không đề tên người dịch, đều do chúng tôi tạm dịch.

    - Bức tranh minh hoạ trên đây là 山路松声图 (Sơn lộ tùng thanh đồ: Tiếng tùng trên đường non) của tài tử Đường Bá Hổ (1470 – 1524) thời Minh. Bốn câu thơ đề bên phải bức tranh là:

    女几山前野路横
    松声偏解合泉声
    试从静里闲倾耳
    便觉冲然道气生

    Nữ Kỷ sơn tiền dã lộ hoành
    Tùng thanh thiên giải hợp tuyền thanh
    Thí tòng tĩnh lý nhàn khuynh nhĩ
    Tiện giác xung nhiên đạo khí sinh.

    ReplyDelete
  33. ĐI BUÔN RƯỢU

    Câu chuyện này đã được truyền tụng trong dân gian từ lâu...

    Ngày xửa ngày xưa... xưa lắm!
    Tại một làng nọ có cặp chiến hữu hoàn cảnh khá giống nhau. Cả hai đều ly nông từ lâu nhưng lại bất ly hương. Khốn nỗi ở cái xứ bước ra là ruộng bước vào là nương này mà không biết cày, biết cấy thì xóa đói cũng chẳng xong chứ nói gì giảm nghèo.
    May mắn là cả hai đều có vợ đảm đang tần tảo. Nhưng bám gấu váy đàn bà mãi cũng nhục, sau nhiều độ nhậu lâm ly bi tráng nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu... lẫn nhau, cả hai mới phát hiện rằng đàn ông tay nào cũng nhậu cả nên quyết định đi buôn rượu.
    Nghe chồng phân tích, một vốn bốn lời, thị trường rộng mở, gương mặt hai chàng đỏ gay múa tay múa chân minh chứng rõ rệt, hai cô vợ thấy cũng có lý nhưng cũng cố vặn vẹo:
    - Lỡ ế thì sao?
    - Không bao giờ! Vợ có thể ế chứ còn rượu thì không. Cùng lắm thì tụi anh sẽ ráng... uống hết!
    Câu trả lời hoàn toàn thuyết phục. Dầu sao họ cũng uống, lỡ kẹt thì uống rượu nhà giá gốc lại khỏi phải lo ngộ độc.
    Vốn là người chịu khó chịu thương, hai cô bàn với nhau cùng hợp tác nấu rượu cho chồng đi bán. Gia cảnh cũng chẳng khấm khá gì lại phải vay vốn để sản xuất nên cả hai rất tiết kiệm: gạo mua tận gốc, củi lửa tận dụng, hèm dùng nuôi heo... để giảm giá thành.
    Hôm tiễn chồng lên ghe với chum rượu, bao gạo, bịch khô... và một đồng bạc tích cóp từ lâu, hai cô sụt sùi dặn dò ráng tằn tiện, luôn nhớ câu “tiểu phú do cần”...

    ReplyDelete
  34. Chiều xuống, giữa mênh mông sông nước, không ai dòm ngó, hai chàng bỗng cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa. Nuốt ực một cái, chàng A bậm môi quẳng ra đồng bạc:
    - Bán tôi một lít!
    B hí hửng đong và cả hai bắt đầu nhâm nhi... Vừa cạn lít đầu tiên, nhìn con cá khô mặn mới chỉ mất cái đầu, anh B tức tối móc đồng bạc ra dằn mạnh:
    - Anh em mình dãi dầu mưa nắng để làm giàu mà họ trả công quá bèo. Lấy thêm lít nữa!
    Lúc này đến phiên chàng A cặm cụi đong...
    Chiếc ghe cứ thế xuôi dòng, đồng bạc chạy qua chạy lại, rượu cứ vơi dần...
    Sau ba ngày mua bán lòng vòng, chum đã cạn queo. Hai chàng bèn múc nước sông đổ vào, quay ghe về bến.
    Nhìn chồng hốc hác hẳn đi sau ba ngày buôn rượu báo cáo kết quả kinh doanh với đủ mọi lý do khách quan như trời mây, sông nước, tại chất lượng hàng... vô cùng thuyết phục, nhưng vẫn bán tin bán nghi, một nàng vốn hời hợt giở chum ra xem qua thấy vẫn còn đầy sóng sánh nên thông cảm bỏ qua. Cô kia đáo để hơn, chấm ngón tay vào nếm thử, biết ngay sự việc. Nhưng xấu chàng cũng hổ thiếp, nên đành ngậm tăm, chờ đến khuya mới lôi nhau ra xử lý nội bộ!
    Được vài ngày, hai chàng lại ỉ ôi hứa hẹn sẽ rút kinh nghiệm, vừa học vừa làm... Lỡ phóng phải theo, hai cô vợ lại tiếp tục vay vốn, còng lưng nấu rượu cho chồng đi buôn cho đến khi lụn bại!

    ReplyDelete
  35. Khoái quá ! Khoái quá !

    Mỗi lần “ôn thần miệt dưới “ bước vào Trang Thơ thì đã say bí tỉ !!! Tuổi Hoàng Hôn hay Tuổi Hạc gì thì cũng trôi qua như mây trời lãng đãng …còn lại Tuổi Thơ ..ngây cụ …

    Đọc bài Thi và Họa của học giả QH và Đi buôn rượu của anh Sao mà …ước gì có ngày gặp gỡ cụng ly “dạ quang bôi “ (cứ cái gì làm bằng thủy tinh trong suốt mà đựng được rượu – thì gọi là dạ quang bôi - phải vậy không ? )
    “Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá !
    Rồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ?
    Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ??
    (Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)

    ….
    Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau ,
    Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …” -Quá đã !!!
    cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được !
    ….
    Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?

    Và anh S@ ơi ! Theo nghiên cứu thì tiếng Việt ta có “Sao Tua chín cái ối a nằm kề …”
    vậy mà ở bên Nhật đếm được có sáu cái - Tua rua - tiếng Nhật là Subaru …

    ReplyDelete
  36. “Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá !
    Rồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ?
    Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ??
    (Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)


    ….
    Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau ,
    Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …”Quá đã “
    cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được !
    ….
    Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?

    Dể gì mà "Ông Trời con, hạ cố Trang Thơ mấy lần trong một bài thơ, mà còn chất vấn, y chang như là ...Quốc hội" ...

    Cho nên "nhứt định" phải , đáp, giải đàng hoàng chứ không ấm ớ hội tề được...mấy khi mà " Ông Trời...con" hạ cố chứ phải không các Bạn.

    Bài thơ của Bà Huyện thì không có tranh minh họa, mà Bà thì không vẻ tranh rồi đề thơ lên trên đó như mấy ông ba tàu, thành ra thơ của Bà là "THƠ LÀ TRANH" chứ không là "THI HỌA".

    Chúa Nguyễn Phúc Chu đến Ngũ-Hành-Sơn và làm bài vịnh Tam Thai thính triều đi vào lịch sử. mà "Ông Trời con" cho quá đã,
    chứ còn bài Vịnh Ngũ Hành Sơn của nữ sĩ Bang-Nhãn..thì sao? Bài thơ cũng như tranh của Bà..hỏng quá đã sao?

    Vịnh Ngũ Hành Sơn

    Cảnh trí nào hơn cảnh trí này,
    Bồng Lai tiên cảnh hẳn là đây.
    Núi chen sắc đá pha màu gấm,
    Chùa nức hơi hương khói lộn mây.
    Ngư phủ gác cần ngơi mặt nước,
    Tiều phu chống búa tựa lưng cây.
    Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách,
    Vút mắt Trường Sơn ác xế tây.

    Bà Bang -Nhãn Đầu thế kỷ XIX những bài thơ Nôm mang âm điệu hoài cổ như Thăng Long thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà... đã khiến cho bà huyện Thanh Quan trở thành một nữ sĩ danh tiếng thì cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của những bài thơ "Qua cửa Hàn", "Vịnh Ngũ Hành Sơn" đã đưa bà Bang Nhãn bước lên một vị trí xứng đáng trên văn đàn.
    Bang Nhãn là gọi theo tên chồng, bà tên là Lê Thị Liễu (1853-1927), quê làng Phụng Trì, nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi bà cất tiếng khóc chào đời vừa mới 5 năm thì thực dân Pháp đã nổ súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng đất nước ta, từ đó cho đến suốt cuộc đời bà phải sống trong cảnh nước nhà bị chìm đắm trong nô lệ.
    Chồng bà là ông Phan Quỳ, một người nổi tiếng hay chữ ở đất Quảng Nam, quê làng Gia Cốc, nay thuộc xã Đại Minh cùng huyện với bà. Ông Quỳ làm chức Bang tá, con đầu đặt tên Nhãn. Ngày trước, người ta thường lấy tên con đầu để gọi cha mẹ nên ông Quỳ được gọi là ông Bang Nhãn.

    Vạn Lý Trường Thành...BẤT ĐÁO TRƯỜNG THÀNH PHI HẢO HÁN câu này thì thiệt là quá "lố bịch"...như Tàu. Hưng-Đạo Đai Vương Trần-Quốc-Tuấn đâu có .."đáo trường thành.."
    Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?

    ReplyDelete
  37. ...Câu hỏi này làm cho QH, sáng nay "bỏ chuyện hổn độn nhân gian" mà tới luôn với "THƠ NHẠC' hay là "NHẠC THƠ"..

    Thường thì ta thấy nhiều người viết Nhạc là người làm Thơ, sau đó nhà thơ mời một nhạc sĩ
    phối âm.

    Đôi khi ta thấy người làm thơ, chỉ làm thơ thôi...và người nhạc sĩ vì yêu bài thơ đó..mà phổ nhạc rất phổ biến.

    Có một số ít Nhà thơ, là ngườ vẻ tranh (họa sỹ) và kiêm luôn người viết nhạc.

    Bửa nay mình nói chuyện là một "nhà tu", trước tăng, sau cư sĩ, làm thơ như vẽ tranh và được người làm nhạc phổ thành những ca khúc bất tử...Thầy tu Phạm Thiên Thư.

    Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long (1 tháng 1 năm 1940- ). Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức thâm thúy về đạo Phật. Ông được coi là "người thi hóa kinh Phật" (dịch kinh Phật ra thơ) và là tác giả của nhiều bài thơ phảng phất triết lý mà ông đã tin theo. Nhiều thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, và trở nên phổ biến trong công chúng, có thể kể đến Ngày xưa Hoàng Thị, các bài Đạo ca...

    Mời đọc bài nghiên cứu của Thái Tú Hạp về

    PHAM-THIÊN-THƯ: NON CAO TÌM ĐỘNG HOA VÀNG.
    Những nhà chân tu Phật giáo ngày xưa quan niệm đi vào con đường Tôn Giáo phải xuất thế tìm nơi non cao tĩnh lặng để theo đuổi cuộc hành trình ngắn ngủi của một kiếp người. Một kiếp nhân sinh tạm bợ bằng thân xác đầy dẫy những sinh lão bệnh tử, thật cô đơn tội nghiệp hoang vu đến vô cùng buồn thảm. Nơi nương tựa thực tiễn chỉ còn cách quay về với chính cái Tâm sâu thẳm, để truy tầm sào huyệt Tâm Trí An Bình. Khi đã ngộ Tâm Chánh Niệm lúc đó mới đạt đến niềm hạnh phúc viên mãn trong đời sống. Nhiều Thiền sư đã diện bích để soi tâm, tìm chính con đường Tâm đạo:

    Diệu tính hư vô bất khả phàn
    Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
    Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
    Liên phát lô trung thấp vị càn.
    (Thi Tịch)

    Tính không huyền diệu vô vàn
    Tâm không ngộ được nghĩ bàn gì đâu?
    Núi cao ngọc cháy đậm màu
    Trong lò sen thắm cho dầu lửa thiêu...
    (Lời Dạy Trước Khi Mất - Thiền Sư Ngộ Ấn)

    ...

    ReplyDelete
  38. ...Trong kinh Phật còn viện dẫn “Chiến thắng ngàn quân không bằng tự chiến thắng mình. Đó là chiến công oanh liệt nhất”. Ông Phạm Thiên Thư như một đạo sĩ xuống núi từ Chùa Pháp Hoa và ông như người rao giảng thâm thúy về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... nhất là ông đã thi hóa Kinh Kim Cương Bát-Nhã quả là một hành động phi thường.

    Mầu nhiệm thay Kim Cương!
    Lạ lùng thay Kim Cương...
    ...Ước gì lòng tôi biến thành Kim Cương để phá tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để kết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.

    Phải chăng đấy là cái tâm “Ứng vô sở trụ mà Sinh” nó đã dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đã làm sao cho Thái Tông khoát nhiên tự ngộ vai trò lãnh đạo nhân dân “dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục”. Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngõ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:

    “Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
    Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”
    (Giáo sư Nguyễn Đăng Thục
    giới thiệu Phạm Thiên Thư).

    Những nhà thơ Phật giáo đa số thường thi triển nguồn cảm hứng dựa trên nền tảng tôn giáo và thiên nhiên, nhất là những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... và các bậc thiền sư này đã tạo cho giòng văn học Việt Nam càng phong phú, giá trị và sâu sắc hơn những nét đặc thù của mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và dân tộc.
    Sự xuất hiện bất ngờ khoảng thời gian 1969 với ba ngàn hai trăm năm mươi bốn (3254) câu thơ Trường Thiên lấy tên “Đoạn Trường Vô Thanh” được xem như hậu Truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn Du. Liên tục những năm sau Nguyễn Du có Chiêu Hồn, ông có Chiêu Hồn Ca, Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu, Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... Phạm Thiên Thư xuất hiện rất muộn và lại ngưng rất sớm, nhưng ông đã đóng góp vào giòng văn học Việt Nam những thành tích không nhỏ. Một trong những tác phẩm này, Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc vào năm 1971. Người đời đã bắt đầu yêu thơ ông qua những thi phẩm “Ngày Xưa Hoàng Thị” “Động Hoa Vàng”... được nhạc sỹ Phạm Duy phổ thành ca khúc.
    Cuộc chiến đang đến hồi bùng vỡ ở nhiều mặt trận cao nguyên, miền địa đầu giới tuyến, mỗi ngày đều nhìn thấy những chiếc trực thăng trắng chở những chiến sĩ bị thương từ chiến trường về những bệnh viện ở những thành phố miền Nam, tâm trạng thanh niên hoang mang, cảm thấy đời sống buồn bã, thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như viên thuốc an thần:

    ...Rằng xưa có gã từ quan
    Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
    Ừ, thì mình ngại mưa mau
    Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
    Sông này chảy một giòng thôi
    Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
    ...Ta về rũ áo mây trôi
    Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
    ...Thì thôi! tóc ấy phù vân
    Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
    ...Mai anh chết dưới cội đào
    Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
    (Động Hoa Vàng)

    ...

    ReplyDelete
  39. ...Tôi cũng đồng ý qua nhận xét của nhà văn Võ Phiến: “Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi, rước em nọ... thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em nầy em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới Kinh Hiền, Kinh Ngọc, không biết chuông mõ gì ráo, thì trong kho tàng thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt đi chứ...”
    Tam Đảo Hạnh Phu (Yukio Mishima) một trong những nhà văn nổi tiếng của Nhật, ông có viết một truyện ngắn với nhan đề “Chuyện Tình Của Nhà Sư Chùa Shiga” ông đã diễn tả cái nghịch lý ghê gớm xảy ra trong nội tâm của một thiền sư giữa tình yêu và đạo lý... Cuối cùng “Thiền sư đã quyết định từ bỏ tất cả để ra đi. Lòng Thiền sư thật bình thản, trống không. Cái trống không thật viên mãn vì ông đã chiêm nghiệm được ở cái hố thẳm vô cùng tận đó chỉ là Sắc, Không...”
    Cái điều ỡm ờ nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho thế gian ngẩn ngơ, hoài nghi cái chân lý ông đang đeo đuổi. Một ông sư đã biết yêu và biểu lộ tình yêu một cách quá quắt khác thường, lãng mạn còn hơn những chàng trai bình thường mới biết yêu:

    ...Em tan trường về
    Anh theo Ngọ về
    Chân anh nặng nề
    Mai vào lớp học
    Anh còn ngẩn ngơ...
    ...Môi em mỉm cười
    Mang mang sầu đời, tình ơi!
    ...Ôi! Con đường về
    Bông hoa còn đẹp
    Lòng sao thấm mệt
    Ngắt vội hoa này
    Nhớ người thuở xưa...
    (Ngày Xưa Hoàng Thị)

    ...Em làm trang tôn kinh
    Anh làm nhà sư buồn
    Đêm đêm buồn tụng đọc
    Lòng chợt nhớ vương vương
    Đợi nhau từ mấy thuở
    Tìm nhau cõi vô thường
    Anh hóa thân làm mực
    Cho vừa giấy yêu đương...
    (Pháp Thân)

    Mặc dù đang ở vào thời đại cuối thế kỷ 20, nhưng tình yêu đối với nhà sư Phạm Thiên Thư vẫn còn những cảm xúc thánh thiện, khép kín một chút bẽn lẽn khi hai người yêu nhau không dám gần nhau trong bàn tay nắm, vì sợ tình yêu sẽ tan biến đi như sương khói:

    ...Anh trao vội vàng
    Chùm hoa mới nở
    Ép vào cuối vở
    Muôn thuở còn vương...

    ReplyDelete
  40. ...Cũng như anh chàng Xuân Diệu thời tiền chiến:

    ...Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
    Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
    Tôi với người yêu qua nhè nhẹ...
    Im lìm không dám nói năng chi
    (Trăng)

    Không dám nói vì sợ âm thanh tan vỡ giây phút linh thiêng tỏ tình. Tất cả sự biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng. Im lặng của thủy triều phá vỡ ruộng đồng núi non không biết chừng.

    ...Đôi mày là Phượng cất cao
    đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
    tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
    tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
    ...dù mai lều cỏ chân trời
    khói hương lò cũ khóc người trong thơ
    em còn ửng má đào tơ
    tóc xưa dù có bây giờ sương bay...

    Tình yêu của nhà Sư nồng nàn quá, đến nỗi con vạc bờ kinh nó cũng ghẹo nhà Sư ỡm ờ trần tục:

    ...Hỏi con vạc đậu bờ kinh
    Cớ sao lận đận cái hình không hư
    Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
    Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
    (Động Hoa Vàng)

    Ở cái thế giới thi ca Phạm Thiên Thư chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo tình yêu và thiên nhiên, mặc dù ông chỉ mới xuất hiện một thời gian ngắn ngủi trước khi trang sử Văn Học Miền Nam xếp lại. Nhiều người tin cho biết, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn ngây thơ non dạ, thực hiện cuốn Kinh Hồng để ca ngợi chế độ mới, nhưng ông đã lầm khi ông chuẩn bị viết những trang đầu thì chính những “Đoạn Trường Vô Thanh”, “Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài”, “Kinh Ngọc”, “Kinh Hiền”, “Kinh Thơ...” bị hỏa thiêu một cách thê thảm chung với số mệnh những tác phẩm của những nhà thơ, nhà văn miền Nam mà chúng gọi “Sản phẩm văn hóa đồi truỵ của Mỹ-Ngụy”. Ông bị xem như nhà thơ đứng bên lề của “giòng thác thi ca Cách Mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Thi sĩ Phạm Thiên Thư u buồn thất vọng não nề.

    “Thôi thì thôi, chỉ phù vân
    Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi...


    Nhắc đến thuở vàng son trước 1975, ông là thi sĩ trẻ làm thơ say mê không biết mệt, có khi mỗi ngày ông có thể sáng tác mấy trăm câu thơ một cách dễ dàng. Nhà văn Võ Phiến có nhắc lại sự kiện nầy trên Tạp Chí Làng Văn xuất bản tại Canada: “...Cuốn Kinh Hiền mười hai ngàn câu ông viết trong một năm rưỡi: Việc Đạo phải nỗ toàn lực nên thế. Còn cuốn Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài gồm 111 bài thơ, ông cũng chỉ làm xong trong vòng hăm ba ngày. Mỗi ngày năm bài thơ, đều đều. Lý do gì vậy?... Không ai đi trách một người... làm quá nhiều thơ. Duy không biết có phải cái lượng làm hại cái phẩm chăng. Vì trong cái lượng đồ sộ nọ, số dở quá nhiều. Trong lắm bài có những câu thật hay lạc vào giữa các câu dở làm ta tiếc ngẩn ngơ...”
    Nhưng có điều còn tiếc sâu xa hơn. Ở một tài năng thấu triệt Kinh Kim Cương vi diệu cao siêu đến như thế, đã ước mơ... “Kiếp sau làm chim trong sương. Về bay hóa độ mười phương trời vàng...” thì còn bon chen gì cõi tạm phù sinh. Hãy trở về Chùa Pháp Hoa diện bích, để thôi nhìn nắng quái đang đốt cháy những đóa hoa dịu dàng lung linh trong gió thoảng. Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là khung cửa hư ngụy... thì còn thiết tha gì đối với chốn bụi hồng?//

    Ghi thêm: Hội chứng nói dài. QH biết mình có bệnh..nói dai, dài...Nhiều lần chữa bệnh mà vẫn không hết và không thuyên giãm.
    Cho nên cứ phải nói dài dài...cho rõ chuyện.

    Chúc các Bạn Vui, Khỏe...để đọc.

    ReplyDelete
  41. Trang Thơ lần này thật thú vị - NT vẫn thích đi hết vòng vo cõi ta bà từ Đông sang Tây, từ một bài thơ cho đến hết mọi ngõ ngách thật của cuộc đời - bài về Nẫu ... rồi sang đến chén cổ, thơ cổ và dừng lại Cổng chùa Phạm Thiên Thư
    Ôi biết bao nhiêu điều học hỏi vì ... thế đấy, NT vẫn chưa biết hết và đôi khi biết rồi đọc lại vẫn còn " ngậm mà nghe " như thơ Phạm Thiên Thư
    Hà ... hà ... bài viết " dài và dai " của bạn thơ Phạm Thiên Thư ấy hả ... NT cất vào kho để mai mốt ngẩn ngơ tiếp !

    ReplyDelete
  42. Hà ... hà ... bài viết " dài và dai " của bạn thơ Quê Hương ấy hả ... NT cất vào kho để mai mốt ngẩn ngơ tiếp !

    ReplyDelete
  43. Hà Hà, nhà thơ Tháng sáu ơi!

    Cái gì làm được hôm nay thì hãy làm ngay, vì ngày mai có chuyện của ngày mai dó nhà thơ à !

    Cái gì cất vào kho là ...mốc meo thôi!

    ReplyDelete
  44. hà hà..., nói như kiểu NT là trùng ý đây rồi, rất nhiều để học hỏi vì mình chưa biết hoặc biết lơ tơ mơ, kinh nghiệm sống cũng có đó nhưng so với những bạn mình ở đây thì chả là gì cả. Biết bao nhiêu bài viết, bài sưu tầm hay ngay trên Trang thơ này, đọc vài lần chưa chắc nhớ thì tốt nhất là cất vào một chỗ nào đó đặng khi nào có người hỏi đố mình hoặc cần "khoe khoang" trong câu chuyện rôm rả thì mình giở cái tủ ra mà ôn luyện văn võ trước ắt là lưu loát thôi.

    ReplyDelete
  45. Không biết ông thần ViVu say hay tỉnh??Coi chừng ..lại đi dành trăng với Lý Bạch tiên sinh thì thế gian mất đi một "théc méc gia "tài ba.(đùa tí nghe bác)

    về PhạmThiên Thư quả là nhiều điềuchưa biết .ViệtNam mình thật nhiều những nhà THơ Họa (vừa làm thơ vửa là vẽ tranh trong thơ,người đọc cảm nhận ngay tác giả tự minh hoạ những gì mình muốn nói)

    ViVu còn những thắc mắc gì nữa?để còn nghe ké với.............

    ReplyDelete
  46. Từ trước tới nay SM hiểu biết hời hợt về từ " Nẫu" , đọc qua bài sưu tầm cặn kẽ của Sao thấy mắc cỡ cho những suy nghĩ tầm thường của mình về người xứ này. Nội chỉ có câu:
    Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”.
    là cũng thấy phần đông họ yêu chuộng hòa bình, bình chân như vại, thế có chút gì Thiền định phảng phất ở điểm này không các bạn? Hy vọng KV cũng bằng lòng với vụ "chiếm đất" mà nới rộng ra đưa đẩy, nói chuyện linh tinh ngoài lề Tuổi Hoàng hôn nghe.

    ReplyDelete
  47. Thật ngưỡng mộ thiền sư Phạm thiên Thư !

    "...Em làm trang tôn kinh
    Anh làm nhà sư buồn
    Đêm đêm buồn tụng đọc
    Lòng chợt nhớ vương vương"

    để rồi:

    “Thôi thì thôi, chỉ phù vân
    Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi..."

    Lòng tỉnh lặng mặt hồ
    Tâm trong vắt trời xanh
    Một mùi hương theo gió
    Vang vang vọng chuông chùa

    Tỉnh Lặng !

    ReplyDelete
  48. Thien Thanh said...

    (vừa làm thơ vừa là vẽ tranh trong thơ, người đọc cảm nhận ngay tác giả tự minh hoạ những gì mình muốn nói)

    Một câu viết mới đọc tưởng chừng đơn giản, nhưng theo tôi thêm một người nữ trên Trang Thơ...thật tuyệt!

    ReplyDelete
  49. KV im lặng lắng nghe các huynh nói chuyện đây SM và NT ơi !Đây cũng là điểu bổ ích , mở rộng kiến thức cho mình. Các huynh chiụ nói thì các tỉ muội mình chiụ nghe

    ReplyDelete
  50. Trong tất cả tác phẩm văn học kim cổ, cho đến bây giờ, NT đọc nhiều nhất là Truyện Kiều, kế đó là thơ Phạm Thiên Thư ... Hồi xưa (trước năm 75), NT có hết tất cả tập thơ của nhà thơ ấy, sang đây rồi thì không tìm mua lại được, chỉ mua lại được Truyện Kiều mà thôi . Tiếc làm sao đâu !

    ReplyDelete
  51. Hà hà,
    PC tưởng có một mình nhà thơ NT thích cất vào kho, nay lại có thêm người thứ 2 thì PC xin tải hàng đến tận cửa kho đây.

    Để những ai ngưỡng mộ thơ Phạm thiên thư có đủ bài để thưởng thức, PC xin tải vào đây một số bài tiêu biểu đã vang danh một thời. Trước tiên nó về tác giả:

    Cõi thơ Phạm Thiên Thư

    Trong bài Phạm Thiên Thư, người thi hóa kinh Phật, Hà Thi viết:
    Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam Việt Nam) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: Em lễ chùa này, Ngày Xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu...Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ...Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên.

    ReplyDelete
  52. Hoàng Nguyên Vũ trong bài Cõi lạ Phạm Thiên Thư còn cho biết thêm:
    Nhà thơ Phạm Thiên Thư sinh trong một gia đình bố mẹ làm nghề bốc thuốc nhưng thích thơ văn. Tuổi thơ của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho ông được những tiền đề thuận lợi, nhưng để một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm 1958, sau một biến động của cuộc đời... Chuyện là ông có nhóm bạn thơ họa Hồ Quý Ly, tụ tập đàn đúm thơ phú đêm ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ “ương ương dở dở”, cảnh sát chế độ Sài Gòn cũ đã vây bắt. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng... Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo: Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi... Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam...Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ...

    ReplyDelete
  53. Sau đây là các bài thơ:

    Vàng đóa hoa dương

    Đêm đêm ta trở về
    Hồn ta còn ẩn lại
    Dưới chùm hoa man dại
    Là nụ cười lách lau

    Những giờ ta xa nhau
    Là tình thêm níu lại
    Mười ngón dài vụng dại
    Cầm mảnh ngày rơi mau

    Thời gian như con cá
    Quẫy khỏi lòng bàn tay
    Thời gian như chiếc lá
    Rụng xuống đau nhành cây

    Thêm một ngày mất đi
    Gói buồn trong tà áo
    Ta gửi hồn khờ khạo
    Nấp trong rừng tóc hương

    Ai có đi bên đường
    Vô tình va cánh gió
    Có nghe gì trong đó
    Một tiếng lòng ta vương

    Một ngày như sông Thương
    Một nửa trong nửa đục
    Ta thương con bèo lục
    Vàng một đóa hoa dương

    ReplyDelete
  54. Nẽo đường hoa

    Ta gặp nhau làm gì
    Cuối nẻo đường hoa rụng
    Ta gặp nhau làm gì
    Đau lòng con chim di

    Thời gian cất cánh bay
    Qua rừng này rừng nọ
    Ta làm sao hóa gió
    Theo tóc người lênh đênh

    Ta ướm hoài dấu chân
    Chưa vừa lòng nỗi nhớ
    Tóc em hồng dây nhợ
    Chăng lối về xanh xanh

    Một tấm ngày như tranh
    Ta cuốn vào kỷ niệm
    Một mặt trời huyền nhiệm
    Đã lặn tròn đáy tim

    Áo em vàng như chim
    Bay tung trời bát ngát
    Gieo hồn ta mấy hạt
    Chợt nẩy mầm vô biên

    Con đường dài triền miên
    Hàng cây xanh gỗ trắng
    Ta đi về thầm lặng
    Đèo mặt trời trên yên

    Mười ngón dài thu xuân
    Vuốt dương cầm tóc rối
    Ta là con vạc lội
    Bến sương mờ sông Ngân

    Gặp nhau muôn nghìn lần
    Như lá mùa thu rụng
    Ta nghe lòng lúng túng
    Đốt thuốc ngồi phân vân

    Đi kiếm hoài dấu chân
    Hè phố rêu biền biệt
    Làn tóc em chảy miết
    Đưa ta vào biển xuân

    ReplyDelete
  55. Trang Nghiêm

    Em như nụ bưởi
    Vừa chín thơm bay
    Anh khoa bàn tay
    Tôn vinh dâu bể

    Dáng em lau gầy
    Vươn từ khổ đế
    Mỉm cười thơ ngây
    Trang nghiêm cõi này

    Em là nụ lệ
    Là hạt rượu say
    Giữa chán chường đầy

    Dáng em thấp thoáng
    Mấy pho thơ dầy
    Như khói như mây

    ReplyDelete
  56. Áo lụa

    một sợi tóc biếc
    dài như mưa thu
    lẫn trong sương mù

    guốc nào động nhỏ
    hoa nào rơi thưa
    ai kia áo lụa
    bước đi chần chừ

    ReplyDelete
  57. Biết đâu

    Biết đâu tươi hồn xuân
    Ẩn sau con mắt héo
    Biết đâu tình trong trẻo
    Sau nụ cười khô khan

    Biết đâu sợi dây đàn
    Giận thốt lời ly biệt
    Không dứt tình tha thiết
    Buộc tròn hai trái tim

    Biết đâu một cánh chim
    Nối hai miền tiếc nuối
    Biết đâu hòn đá cuội
    Lăn tròn mấy ngàn năm

    Biết đâu ta yên nằm
    Trên môi người huyễn hoặc
    Trong nỗi sầu dằng dặc
    Phóng muôn nghìn mũi lao

    Biết đâu qua lưỡi dao
    Bén những lời thánh thiện
    Biết đâu con én liệng
    Lời lẽ một mùa xuân

    Biết đâu trăm nghìn lần
    Cũng không ai ngờ nổi
    Ta xin người chớ vội
    Đem cuộc đời đo cân

    ReplyDelete
  58. Vết chim bay

    Ngày xưa anh đón em
    Nơi gác chuông chùa nọ
    Con chim nào qua đó
    Còn để dấu chân in

    Anh một mình gọi nhỏ
    Chim ơi biết đâu tìm

    Mười năm anh qua đó
    Còn vẫn dấu chân chim
    Anh một mình gọi nhỏ
    Em ơi biết đâu tìm

    Ngày xưa anh đón em
    Trên gác chuông chùa nọ
    Bây giờ anh qua đó
    Còn thấy chữ trong chuông

    Anh khoác áo nâu sồng
    Em chân trời biền biệt
    Tên ai còn tha thiết
    Trong tiếng chuông chiều đưa

    Ngày xưa em qua đây
    Cho tình anh chớm nở
    Như chân chim muôn thuở
    In mãi bực thềm rêu

    Cõi người có bao nhiêu
    Mà tình sầu vô lượng
    Còn chi trong giả tướng
    Hay một vết chim bay

    ReplyDelete
  59. Thuyền trăng

    Như con người thái cổ
    Nhìn trăng ta rùng mình
    Ước chi là bến đỗ
    Ôm cánh thuyền thuỷ tinh

    Sao như bầy hải âu
    Bay quanh thuyền ánh sáng
    Chở khối tình quá vãng
    Xuôi về đâu – về đâu

    Ta không là sông sâu
    Mà nghe hồn sóng vỗ
    Ta không là bến đỗ
    Mà sao tình vấn vương

    Tà áo trắng như sương
    Ai theo thuyền đâm độ
    Nỗi sầu ta nở rộ
    Như ngàn hương – ngàn hoa

    Từ một thời rất xa
    Mịt mù trong dã thoại
    Đêm nay ta gặp lại
    Trái tim mình trong trăng.

    ReplyDelete
  60. Ngày xưa Hoàng thị

    Em tan trường về
    Đường mưa nho nhỏ
    Chim non dấu mỏ
    Dưới cội hoa vàng

    Bước em thênh thang
    Áo tà nguyệt bạch
    Ôm nghiêng cặp sách
    Vai nhỏ tóc dài

    Anh đi theo hoài
    Gót giầy thầm lặng
    Đường chiều úa nắng
    Mưa nhẹ bâng khuâng

    Em tan trường về
    Cuối đường mây đỏ
    Anh tìm theo Ngọ
    Dấu lau lách buồn

    Tay nụ hoa thuôn
    Vương bờ tóc suối
    Tìm lời mở nói
    Lòng sao ngập ngừng

    Lòng sao rưng rưng
    Như trời mây ngợp
    Hôm sau vào lớp
    Nhìn em ngại ngần

    Em tan trường về
    Đường mưa nho nhỏ
    Trao vội chùm hoa
    Ép vào cuối vở

    Thương ơi vạn thuở
    Biết nói chi nguôi!
    (tiếp)

    ReplyDelete
  61. Em mỉm môi cười
    Anh mang nỗi nhớ
    Hè sang phượng nở
    Rồi chẳng gặp nhau

    Ôi mối tình đầu
    Như đi trên cát
    Bước nhẹ mà sâu
    Mà cũng nhoà mau

    Tưởng đã phai màu
    Đường chiều hoa cỏ
    Mười năm rồi Ngọ
    Tình cờ qua đây

    Cây xưa vẫn gầy
    Phơi nghiêng ráng đỏ
    Áo em ngày nọ
    Phai nhạt mấy màu?

    Chân tìm theo nhau
    Còn là vang vọng
    Đời như biển động
    Xoá dấu ngày qua

    Tay ngắt chùm hoa
    Mà thương mà nhớ
    Phố ơi muôn thủa
    Giữ vết chân tình

    Tìm xưa quẩn quanh
    Ai mang bụi đỏ
    Dáng em nho nhỏ
    Trong cõi xa vời

    Tình ơi! Tình ơi!

    (Tuyệt!!)

    ReplyDelete
  62. Bài "Đưa em tìm động hoa vàng"
    có 100 khổ mời bạn đọc...từ từ

    1
    Mười con nhạn trắng về tha
    Như Lai thường trụ trên tà áo xuân
    Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
    Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

    2
    Xe lên bụi quán hoa đường
    Qua sương trắng dậm phố phường úa thu
    Tiếng chim ướt sũng hai mùa
    Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua

    3
    Dế buồn dỗ giấc mù sa
    Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay
    Người về sao nở trên tay
    Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ

    4
    Con khuyên nó hót trên bờ
    Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
    Tưởng xưa có kẻ trên lầu
    Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa

    5
    Tóc dài cuối nội mây xa
    Vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay
    Dùng dằng tay lại cầm tay
    Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa

    6
    Từ chim thủa núi xa xưa
    Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng
    Từ em khép nép hài xanh
    Về qua dục nở hồn anh đóa sầu

    7
    Ừ thì mình ngại mưa mau
    Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
    Sông này chảy một dòng thôi
    Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông

    8
    Ngày xưa em chửa theo chồng
    Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
    Mùa thu áo biếc da trời
    Sang đông em lại đổi dời áo hoa

    9
    Đường về hái nụ mù sa
    Đưa theo dài một nương cà tím thôi
    Thôi thì em chẳng yêu tôi
    Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng

    10
    Sao em bước nhỏ ngập ngừng
    Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ
    Đêm về thắp nến làm thơ
    Tiếng chân còn vọng nửa tờ thơ tôi

    ReplyDelete
  63. 11
    Đôi uyên ương trắng bay rồi
    Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
    Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
    Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha

    12
    Con chim chết dưới cội hoa
    Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
    Mai anh chết dưới cội đào
    Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu

    13
    Tường thành cũ phiến bia xưa
    Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
    Chiều xanh vòng ngọc trao tay
    Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha

    14
    Đêm dài ươm ngát nhụy hoa
    Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia
    Em ơi rủ tóc mây về
    Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay

    15
    Đợi nhau tàn cuộc hoa này
    Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ
    Tìm trang lệ ố hàng thơ
    Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di

    16
    Mây xưa cũng bỏ non về
    Em xưa cũng giã câu thề đó đây
    Nhớ đành biết mấy tầm tay
    Lông chim biển bắc hoa gầy bãi đông

    17
    Đợi ai trăng rõi hoa buồn
    Vắng em từ thủa theo buồm gió xuôi
    Chiều chiều mở cổng mây trôi
    Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm

    18
    Thế thôi phố bụi xe hồng
    Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay
    Đưa nhau đấu rượu hoa này
    Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm

    19
    Xuống non nhớ suối hoa rừng
    Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
    Về thành nhớ cánh chim bay
    Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa

    20
    Hạc xưa về khép cánh tà
    Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần
    Em về hong tóc mùa xuân
    Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành

    ReplyDelete
  64. 21
    Em nằm ngó cội thu xanh
    Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
    Về em vàng phố mây trời
    Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân

    22
    Thì thôi tóc ấy phù vân
    Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
    Thì thôi mù phố xe đường
    Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi

    23
    Gầy em vóc cỏ mây dời
    Tay em mai nở chân trời tuyết pha
    Ngày dài ngựa soải cầm ca
    Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương

    24
    Xe lăn bánh nhỏ bụi hường
    Lao xao vó rụng trên đường phố mây
    Mưa giăng ráng đỏ hao gầy
    Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa

    25
    Chim nào hát giữa thôn hoa
    Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay
    Lụa nào phơi nắng sông tây
    Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông

    26
    Con chim mùa nọ chưa chồng
    Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu
    Từ em giặt áo đông tơ
    Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm

    27
    Thuyền ai buông lái đêm rằm
    Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào
    Cửa sương nhẹ mở âm vào
    Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca

    28
    Lên non cuốc sỏi trồng hoa
    Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương
    Vớt con cá nhỏ lòng đòng
    Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ

    29
    Vào non soi nguyệt tầm rùa
    Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư
    Thả rùa lại đứng ưu tư
    Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa

    30
    Em nghiêng nón hạ cầu mưa
    Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về
    Hoa sầu cỏ cũng sầu chia
    Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha

    ReplyDelete
  65. 31
    Đất nam có lão trồng hoa
    Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
    Lại đem bầu ngọc ra trồng
    Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân

    32
    Người vui ngựa chợ xe thành
    Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
    Theo chân chim gặp mây trời
    Lại qua khói động hỏi người tu non

    33
    Bông hoa trắng rụng bên đường
    Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng
    Con ong nhỏ mới ra giàng
    Cũng nghiêng đôi cánh nhụy vàng rụng rơi

    34
    Mùa xuân bỏ vào suối chơi
    Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa
    Múc bình nước mát về qua
    Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa

    35
    Chim từ bỏ động hoa thưa
    Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông
    Lên non kiếm hạt tơ hồng
    Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay

    36
    Người về đỉnh núi sương tây
    Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa
    Bến nam có phố giang hà
    Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say

    37
    Tình cờ anh gặp nàng đây
    Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
    Qua sông có kẻ chợt buồn
    Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu

    38
    Mốt mai em nhớ bao giờ
    Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không
    Chân chim nào đậu bên cồn
    Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim

    39
    Đợi người cuộc mộng thâu đêm
    Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa
    Anh nằm gối cỏ chờ hoa
    Áo em bạch hạc la đà thái hư

    40
    Em từ rửa mặt chân như
    Nghiêng soi hạt nước mời hư không về
    Thâu hương hiện kính bồ đề
    Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi

    ReplyDelete
  66. 41
    Ta về rũ áo mây trôi
    Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
    Rằng xưa có gã từ quan
    Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

    42
    Ngựa xưa qua ải sương này
    Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông
    Nước xuôi gờn gợn mây hồng
    Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò

    43
    Hoa đào tưởng bóng đào xưa
    Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi
    Hoa dương vàng nhạt sầu người
    Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng

    44
    Đưa nhau đổ chén rượu hồng
    Mai sau em có theo chồng đất xa
    Qua đò gõ nhịp chèo ca
    Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

    45
    Khăn trăng từ độ trao tay
    Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương
    Mốt mai lòng có nghe buồn
    Mảnh trăng hiện hóa thiên đường cõi chơi

    46
    Nhện cheo leo mắc tơ trời
    Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương
    Đánh rơi hạt mận bên đường
    Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa

    47
    Nụ vàng hương rộ tháng ba
    Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương
    Chẳng như cội liễu bờ dương
    Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không

    48
    Mai nào thơm ngát thu đông
    Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh
    Đôi chim hồng yến trên cành
    Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang

    49
    Mùa xuân mặc lá trên ngàn
    Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
    Động nam hoa có thiền sư
    Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn

    50
    Nến khuya lửa hắt hiu vàng
    Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
    Ý nào hóa hiện ngàn hoa
    Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni

    ReplyDelete
  67. 51
    Dỗ non suối giọng thầm thì
    Độ tam thế mộng xá gì vóc hoa
    Ni cô hiện giữa ta bà
    Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng

    52
    Tiếng chim trong cõi vô cùng
    Nở ra bát ngát trên rừng quế hương
    Tiếng em hát giữa giáo đường
    Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng

    53
    Đố ai nhớ hết hoa vàng
    Đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu
    Đố ai tát cạn mạch sầu
    Thì ta để tóc lên cầu đón ai

    54
    Em về sương đẫm hai vai
    Dấu chân là cánh lan dài nở đêm
    Từ em hé nụ cười huyền
    Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa

    55
    Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca
    Sư về chống gậy trúc qua cầu này
    Ngó bờ suối lạnh hoa bay
    Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh

    56
    Có con cá mại cờ xanh
    Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
    Nửa dòng cá gặp phù vân
    Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi

    57
    Dù mai lều cỏ chân trời
    Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ
    Em còn ửng má đào tơ
    Tóc xưa dù có bây giờ sương bay

    58
    Lên non ngắt đóa hoa này
    Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa
    Nom hoài chẳng rõ là ta
    Tắm xong khoác áo hát ca về làng

    59
    Tay đeo vòng ngọc xênh xang
    Áo em bay giải tơ vàng thiết tha
    Bước chân tìm chán ta bà
    Ngừng đây nó hỏi: đâu là vô minh

    60
    Hỏi con vạc đậu bờ kinh
    Cớ sao lận đận cái hình không hư
    Vạc rằng: thưa bác thiên thư
    Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ

    ReplyDelete
  68. 61
    Nước đi từ thủa bao giờ
    Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi
    Chừng đâu dưới bến hoa tươi
    Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông

    62
    Từ hôm em bỏ theo chồng
    Áo trắng em cất áo hồng em mang
    Chiều nay giở lại bàng hoàng
    Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh

    63
    Đôi chim nho nhỏ trên cành
    Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường
    Nửa đời mây nước du phương
    Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân

    64
    Gò chiều ùn bụi sương lên
    Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng
    Bên mồ chồn cáo đùn hang
    Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga

    65
    Cuối xuân ta lại tìm qua
    Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn
    Sớm thu ta đánh đò sang
    Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa

    66
    Trúc thưa cổng gió ơ hờ
    Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng
    Sông ơi xanh nhé một dòng
    Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa

    67
    Đường dài xao xác chim ca
    Người còn khoác nón theo tà dương nao
    Ván cờ bày trắng bông đào
    Sao lên núi thẫm trăng vào chén không

    68
    Đồi thu vắt suối mây hồng
    Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên
    Bấc sầu lửa lụn chờ em
    Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này

    69
    Đón em như ngóng chim trời
    Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu
    Em còn áo trắng ngày xưa
    Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen

    70
    Khơi trầm thơm tụng kinh hiền
    Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da
    Vườn chùa có nụ hàm ca
    Sương khuya: pháp bảo trăng tà: vô môn

    ReplyDelete
  69. 71
    Mai tươi cánh nở bên cồn
    Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời
    Thu đông tàng ẩn kho trời
    Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa

    72
    Cổng làng mở cánh sao sa
    Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai
    Lên chùa dâng dĩa hoa nhài
    Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư

    73
    Chuông ngân chiều lặng trầm tư
    Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
    Điệu về tay giấu chùm bông
    Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa

    74
    Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
    Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương
    Gió thu từ độ tha phương
    Về trên hốc gỗ bên đường lặng im

    75
    Áo em vạt tím ngàn sim
    Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ
    Yêu nhau từ độ bao giờ
    Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay

    76
    Tình cờ như núi gặp mây
    Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao
    Tỉnh ra thì giấc chim bao
    Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng

    77
    Cành sen lá chĩu sương trong
    Áo ni xám vạt trời hong buồn về
    Tay nào nghiêng nón thơ che
    Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao

    78
    Đôi mày là phượng cất cao
    Đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
    Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
    Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây

    79
    Tóc em rừng ngát hương say
    Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà
    Mắt xanh bản nguyện di đà
    Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim

    80
    Mắt nàng ru chiếc nôi êm
    Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời
    Em là hoa hiện dáng người
    Tôi là cánh bướm cung trời về say

    ReplyDelete
  70. 81
    Một đêm nằm ngủ trong mây
    Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
    Cây bưởi trắng ngát hương đời
    Nụ là tay phật chỉ người qua sông

    82
    Non xanh khoác áo sương hồng
    Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay
    Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay
    Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa

    83
    Em bên cửa chuốt tay ngà
    Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành
    Ngày em ướp áo hồ xanh
    Con uyên tha thiết trên cành gọi thu

    84
    Ni về khép cửa chùa tu
    Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng
    Thu vương ngọn chổi đôi bông
    Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên

    85
    Sư lên chót đỉnh rừng thiền
    Trong tim chợt thắp một viền tà dương
    Ngón tay nở nụ đào hương
    Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời

    86
    Một dòng hoa nổi trên trời
    Một dòng hoa nở trong người trầm tư
    Cánh nào mở cõi không hư
    Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang

    87
    Thư em ướp nụ lan vàng
    Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa
    Áo em phất cõi di đà
    Ngón chân em nở cánh hoa đại từ

    88
    Chênh vênh đầu trượng thiền sư
    Cửa non khép ải sương mù bóng ai
    Non xanh ướm hỏi trang đài
    Trăm năm còn lại dấu hài động hoa

    89
    Ngày xưa bên dậu vàng hoa
    Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
    Năm sau em bỏ đi rồi
    Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn

    90
    Trên nền gạch nẻ rêu phong
    Xưa phơi nhã điệu giờ hong đóa quì
    Trẻ đào bãi cỏ xanh rì
    Được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han

    ReplyDelete
  71. 91
    Non đem nhạn nhốt trong thành
    Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu
    Người còn dệt lụa tằm dâu
    Đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn

    92
    Núi nghiêng suối vắt tơ đàn
    Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa
    Nghiêng bình trà nhớ hương xưa
    Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa

    93
    Sáng nghe lan rụng mái nhà
    Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này
    Đường về mù mịt ngàn mây
    Về nam đôi cánh chim bay xạc xào

    94
    Mây dù chẳng chất non cao
    Đường về dù chẳng sông đào nông sâu
    Đêm đêm lòng dục nẻo sầu
    Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm

    95
    Nhớ cha giọt lệ khôn cầm
    Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh
    Nghiêng ly mình cạn bóng mình
    Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay

    96
    Gối tay nệm cỏ nằm say
    Gõ vào đá tụng một vài biển kinh
    Mai sau trời đất thái bình
    Về lưng núi phượng một mình cuồng ca

    97
    Gây giàn thiên lý vàng hoa
    Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
    Xuống đầm tát cá xâu cây
    Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim

    98
    Khách xa nhớ đến nhau tìm
    Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
    Hứng nước suối thết bình trà
    Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn

    99
    Vào hang núi nhập niết bàn
    Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe
    Mai sau thí chủ nào nghe
    Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh

    100
    Hoa vàng ta để chờ anh
    Hiện thân ta hát trên cành tâm mai
    Trần gian chào cõi mộng này
    Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên

    ReplyDelete
  72. Giữa mộng và thực có khi chỉ cách nhau một vài "séc na". Một Phạm thiên Thu trong văn học tuyệt vời và một Phạm thiên thư ngoài đời tầm thường...PTT sau 1975!

    Điều nầy chứng tỏ bài thơ Tuổi hoàng Hôn của KV cũng tuyệt diệu!

    ReplyDelete
  73. Chuyển dùm Ngàn Sau

    TỪ ĐÂU ĐÓ...
    Thôi nhớ làm chi một giòng sông
    Người xưa khô lệ đã chờ trông
    Chiếc cầu mơ ước nằm yên ngủ
    Trong kỷ niệm buồn ký ức dâng !

    Ta đến rồi đi là sự thường
    Sớm mai rồi lại đến chiều hôm
    Buồn vui rồi cũng theo năm tháng
    Hãy sống yên bình ,trí hanh thông !

    Trần gian ảo ảnh có như không
    Hãy sống cùng nhau cho thoả lòng
    Mặc kệ thói đời tan theo bụi
    Hoàng hôn sẽ tới bóng chiều buông !
    NS

    ReplyDelete
  74. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete
  75. Cám ơn chị NS với bài thơ TỪ ĐÂU ĐÓ.Một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng ý thật sâu sắc hở chị.

    ReplyDelete
  76. Cám ơn huynh PC với những bài thơ của PTT. Hồi nhỏ KV rất thích bài hát Ngày xưa Hoàng Thị . Thơ của PTT thật tuyệt vời. Cáng đọc sẽ thấy được sự tuyệt diệu trong thơ PTT. Với KV thì chưa dám nhận hai chữ này huynh PC nghe!
    Nói về tranh trong thơ mà QH đề cập , KV chợt nhớ đến bài thơ TÌM VỀ mà Vân đã làm cách dây hai năm.
    Một nơi chốn an bình, thanh tịnh mà Vân hằng ước mong những ngày cuối đời mình được ở một chỗ như thế . Bài thơ này có thể Vân đã gửi cho các bạn thơ đọc rồi . Bây giờ đọc lại nghe
    TÌM VỀ

    Chuông chùa vang vọng xa xa.
    Núi non bàng bạc , mây là đà bay.
    Ánh dương tỏa xuống ngàn cây
    Làn hơi sương nhẹ, lung lay sắc hồng
    Chiếc cầu vòng nguyệt cong cong
    Đưa ta đến chốn hư không, niết bàn
    Lòng ta tìm cõi tịnh an.
    Ngẩng cao trời rộng, muôn ngàn áng mây
    Nhìn xuống đất thấp, là đây.
    Vực sâu thăm thẳm , người say bụi trần,
    Mái chùa trên đỉnh phù vân
    Tiếng chuông thánh thót , lâng lâng tâm hồn.
    Nhìn quanh trong cõi càn khôn
    Nhịp chân ta bước dập dồn đắng cay.
    Thế nên phủi sạch hai tay
    Vứt danh , bỏ lợi ta quay tìm về.
    Bồng lai ,vượt cả sơn khê.
    Cách xa thế tục , bờ mê , thoát trần
    Khánh Vân – Mây Lành (Jan 28 /09)

    ReplyDelete
  77. Thêm 1 bài thơ nữa của Phạm thiên Thư xin chuyển đến các bạn:

    Guốc tía

    con đường hoàng hoa
    em mang hài lục

    con đường bạch cúc
    em mang hài hồng

    con đường sầu đông
    em đi guốc tía

    anh ngồi thấm thía
    cội sầu trổ bông

    ReplyDelete
  78. NT cám ơn bạn thơ Phượng Các đã cho NT đọc lại thơ của Phạm Thiên Thư
    Vẫn còn mê thơ ông ấy ! Đọc thơ PTT thấy mình lửng lơ giữa cổng chùa và cửa trần gian . Trần gian thì chộn rộn quá, cổng chùa thì tĩnh lặng quá - cái hay của nhà thơ là đứng ngoài hai vị trí ấy để nhìn cả hai - không biết NT nghĩ vậy có đúng không ?

    ReplyDelete
  79. Khi đọc một bài thơ được cho là hay, người đọc sẽ đắm chìm vào trong đó bằng tâm cảm của riêng mình và có thể mỗi người mỗi khác.

    Khi ta đọc được một bài thơ vừa ý và được cho là hay bởi có khi thi sĩ nói hộ lòng mình, và chúng ta thưởng thức một nét đẹp của tâm hồn, sự tài hoa của trí tuệ. Thậm chí đôi lúc chuyển thành sự khâm phục. Nhưng đó thuần là sự khâm phục tâm hồn và trí tuệ người đã viết ra những câu thơ mượt mà đó chớ nào phải là khâm phục con người trần gian?

    Tôi xin nêu ra đây một ví dụ: Khi viết được một bài thơ gọi là Thơ Tình thì trong suy tưởng của người viết phải có một đối tượng để mình thủ thỉ. Đối tượng đó có thể là thực mà cũng có thể là một nhân vật tưởng tượng.

    Giả định như đó là một nhân vật tưởng tượng là Nàng Thơ đang bay lượn quanh đây. Bao nhiêu ngôn từ trau chuốt, bao nhiêu lời hay ý đẹp, những nhung nhớ đều dành hết cho Nàng để kết thành một bài thơ tuyệt diệu. Nhưng nếu tôi “trần gian” một chút, cứ tưởng tượng thêm là suối tóc mây óng ả ủ kín hồn mình để dậy hương tình ái mà một tuần lễ nàng không gội thì sao đây nhỉ?

    Chính bởi thế nên nếu đối tượng là một nhân vật có thực lại rơi vào hoàn cảnh ấy thì sao đây?

    Cho nên, con người trần gian là một vế khác, không thể để nó nhập chung vào cõi thơ (chữ mọi người hay dùng)

    Có ai tài giỏi để có thể chụp lại được những xúc cảm và tâm hồn một con người qua một bức ảnh không? Chắc đó chỉ là điều không tưởng. Cho nên Thơ là thơ, còn Người là người. Đừng đem cái diện mạo trần tục của một người so sánh với thơ mà làm giảm giá trị tinh thần của nó.

    Lại nữa, chúng ta cũng thừa hiểu: Những cảm xúc của thời tuổi trẻ phải khác xa với khi đà luống tuổi.
    Đố Ông Phạm Thiên Thư đang ở tuổi cổ lai hy có thể viết được những câu thơ mượt mà tương tự như bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thuở thanh xuân.

    ReplyDelete
  80. Hầu như ai trong độ tuổi chúng ta, có thể sớm hơn hay muộn hơn một chút đều biết đến Phạm Thiên Thư khởi nguyên từ bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị do Phạm Duy phổ nhạc.

    Hai cái tài gặp nhau đã để lại một tác phẩm để đời.

    Xin biếu các bạn sính thơ Phạm Thiên Thư link dẫn dưới đây để lưu vào Favorites để khi cần cứ click chuột một cái thì sẽ có ngay trước mắt cái mình cần, khỏi phải lục lạo chi cho mất công.
    Thơ Phạm Thiên Thư

    Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
    (Tham khảo: http://www.quangduc.com/coban/20cdhp04.html)
    "sát na" là phiên âm tiếng Phạn (sanskit) chứ không phải chữ riêng nhà Phật.

    ReplyDelete
  81. Khi bài thơ của Khánh Vân vừa post lên Trang Thơ, chỉ đọc qua hai lần là tôi “cảm” ngay.

    Thứ nhứt là tựa đề: Tuổi HOÀNG HÔN.
    Một cái tên lạ bởi phần đông mọi người hay gọi lứa tuổi trên 50 là tuổi xế chiều. Gọi chi cái tên mà nghe buồn bã vậy? Hoàng Hôn nghe hay hơn và đậm chất thơ hơn. Đành rằng cũng là một sự kiện, nhưng mỗi người có cách đặt tên khác nhau.
    Cứ cho rằng ta đang dùng một trạng thái của thiên nhiên để áp vào một sự việc khác mà ta muốn mô tả theo ngôn ngữ thơ. Thường thì ai cũng cho rằng hoàng hôn là sắp kết thúc sau một ngày dài sống động, và chừng như lúc ấy mọi việc đang chìm lắng xuống như là một cách buông tay ngơi nghỉ.

    Nương theo đó, tôi xin mở rộng suy nghĩ của mình thêm một chút. Hoàng hôn đâu chỉ để nói đến một ngày tàn? Nó còn có màu mây tía lãng đãng trên sắc trời chiều xui người ta mơ màng về một điều tuyệt diệu nào đó. Những đám mây trắng nõn đủ hình thù lang thang bay ngang bầu trời dịu nắng giúp cho mấy đứa trẻ đang ngã lưng trên bờ cỏ, khoanh hai tay gối sau đầu tha hồ cho trí tưởng tượng phiêu bồng về những con thú, những nhân vật sẽ hiện lên bầu trời nhạt nắng rồi tranh nhau sở hữu chúng, đôi khi xảy ra những cuộc tranh cãi. Tuổi thơ tôi từng đã có những buổi chiều như thế!
    Chưa hẳn là chỉ một đoạn đời đầy ắp những suy nghĩ thơ ngây trong sáng đó đâu. Cũng có lúc tóc trên đầu đã bạc, tôi vẫn còn ngồi trên bờ biển Nha Trang nhìn những đám mây trắng tự đàng đông bay tới mà tưởng tượng vài điều.
    Chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng ta vẫn cảm thấy hạnh phúc nếu biết cách đón nhận chúng.
    Hoàng hôn đang đổ xuống với những tia nắng nhạt xuyên qua ráng chiều rơi xuống vai ta, ngồi với một vài người bạn trên chiếc đệm trải trên cỏ gần một bờ sông nhỏ, nhâm nhi vài ly rượu đế trong hơi gió nhẹ thổi hiu hiu thì quả là “tuyệt cú mèo”, nếu ta biết thưởng thức cuộc sống.
    Hoàng hôn với những làn khói lam uốn éo bay lên từ những nếp nhà tranh của bữa cơm chiều dấy lên trong ta sự ấm cúng của buổi sum họp gia đình sau một ngày làm việc vất vả, ta không thấy tuyệt vời sao?

    ReplyDelete
  82. Với riêng tôi, sau hoàng hôn là màn đêm bắt đầu rón rén từng bước nhẹ về.
    Trong bóng đêm càng lúc càng đậm màu trong hơi sương, đó là lúc tuyệt vời nhất cho những hẹn hò đôi lứa, cho những người có chút tâm hồn lãng mạn dễ viết lên những lời thơ tha thiết nồng nàn.

    Bóng đêm sẽ xóa nhòa những góc cạnh của cuộc sống để chỉ còn lại trong ta những cảm xúc trong veo. Những tình tự sẽ theo gót đêm quay về với ngập tràn nhung nhớ. Đêm cô quạnh sẽ làm ta cảm thấy lẻ loi, nhưng có ai biết đâu ta hạnh phúc trong cõi vắng riêng mình?

    Rồi cũng có một đêm nào đó, ánh trăng sẽ soi sáng cảnh vật quanh ta, soi sáng cả những tình cảm hiện có trong lòng. Dưới ánh trăng, mọi vật sẽ hiện lên trong vẻ mơ màng, tình cảm trong lòng sẽ được nhân lên gấp bội bởi khung cảnh quanh ta. Bóng lá sẽ che khuất những góc cạnh, những gai nhọn xù xì mà dâng cho ta vẻ đẹp của những đóa hoa tỏa hương thơm ngát nở vội thấm đẫm những giọt sương đêm trong vườn khuya.

    Đêm là của những hạnh ngộ lứa đôi. Đêm là của những lời tình tự. Đêm là của những vòng tay, những môi hôn cuống quýt. Đêm là của những buông tay gọi mời cảm xúc dâng tràn. Hương đêm sẽ làm hương Tình yêu nồng nàn sâu thẳm hơn.

    ReplyDelete
  83. Thứ nhì là chữ CUỘN trong câu thơ đầu.

    Dòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ

    Sao mà bạn thơ KHÁNH VÂN chọn được một chữ hay đến vậy? Tưởng như thu nhỏ gọn gàng lại để dễ dàng che dấu những xúc động riêng mình để chỉ mình ta biết ta mà thôi. Những hoài niệm, những hạnh phúc, những đớn đau nào đó ta đã trải qua giờ chỉ còn lại là nỗi nhớ!

    Theo ý riêng tôi, một bài thơ hay là nhờ ở cái ý. Đó như cái sườn nhà để những ngôn ngữ thơ ca sẽ lợp mái lên đó. Nếu là những ngôn từ mộc mạc ta sẽ có một mái nhà tranh thơ mộng. Nếu là những từ ngữ đẫm chất Thiền, chất Đạo thì đó sẽ là chỗ thanh tịnh với khói hương bay. Nếu là những từ ngữ trau chuốt, đó sẽ thành một đền vàng lộng lẫy.

    Tôi lại có chút mù quáng khi cảm nhận cái đẹp. Thốt nhiên nhìn thấy một đóa hoa đẹp, một người phụ nữ, một ánh hoàng hôn, một tiếng chim, một sắc mây...nếu đúng ý mình thì thích ngay. Không săm soi để coi nó đẹp chỗ nào để mình khả dĩ đặt lòng ưa thích vào nó, vì biết rằng mọi vật vốn bất toàn, có khi đôi điều không ưng ý sẽ làm suy giảm cảm xúc của mình thì thiệt là...uổng!

    ReplyDelete
  84. Tôi cũng thích chữ DUYÊN của nhà Phật.
    Thiệt sự tôi cũng không hiểu thấu đáo lắm đâu, chỉ biết cảm nhận theo suy nghĩ nông cạn của mình mà thôi.
    Ví như khi nghe một vị sư giảng kinh, đâu phải tất cả mọi người đều thấu triệt lẽ nhiệm mầu, chỉ những người có duyên mới ngộ được cái thâm sâu của giáo lý Đức Phật.

    Giữa con người với nhau cũng vậy. Phải có cái duyên thì người ta mới gặp được nhau. Tôi luôn luôn tin ở sự mầu nhiệm đó và cho rằng tất cả đều được sắp đặt sẵn đâu đó ở trên cao.

    Tôi lại tin chữ duyên ở một mặt khác.
    Khi con người gặp gỡ nhau rồi nảy sinh tình cảm, khởi đầu cũng gắn bó và hầu như đã thuộc về nhau theo các nghĩa, nhưng cớ sao lần hồi tình lại nhạt phai?

    Có người thì cho rằng kẻ kia đã bội bạc rồi hậm hực bằng những câu nói hay thái độ không hay, nhưng riêng tôi lại nghĩ cái duyên giữa hai người đã hết thì họ rời xa cũng là lẽ đương nhiên. Có cố gắng níu kéo nhau cũng chỉ gặp những bẽ bàng làm mất đi vẻ đẹp của buổi ban đầu mà thôi!
    Cho nên trong những câu thơ tôi đề cập đến chữ bội bạc trong Tình yêu chỉ như nói dùm ai đó chớ riêng tôi thì không hề đau khổ bởi hiểu rõ căn nguyên của vấn đề. Đã hết duyên thì tình sẽ nhạt phai, có điều gì trường tồn mãi mãi đâu? Cớ sao ta phải bực tức?

    Nếu bạn thơ Khánh Vân vui lòng biếu cho tôi câu thơ đầu, chắc tôi có thể sẽ làm được một bài thơ.

    ReplyDelete
  85. Thiệt sôi nỔi.

    Các bạn thơ đang chờ KHÁNH-VÂN "ừ" một tiếng, để còn thưởng thức những vần thơ mượt mà của bạn thơ Sao.

    Trong khi chờ đợi, mờI các Bạn cùng thưởng thức...

    "ÁO NHUỘM HOÀNG HÔN".

    GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU

    Thơ Phạm-Thiên-Thư
    Phạm Duy phổ nhạc
    Vũ Khanh trình bày

    Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn
    Áo nhuộm hoàng hôn, áo nhuộm hoàng hôn
    Bóng ai cắp rổ, cắp rổ lên cồn
    Lên cồn hái dâu, hái dâu

    Tiếng nàng hát vọng đôi câu
    Hát vọng đôi câu, hát vọng đôi câu
    Dừng tay viết mướn ối a lòng sầu
    Lòng sầu vẩn vơ vẩn vơ sầu

    Lều tranh còn ủ trăng mơ
    Còn ủ trăng mơ, còn ủ trăng mơ
    Mối tình làm một bài thơ vô đề
    Ẩn Lan ơi, ơi mái tóc thề

    Ẩn Lan ơi, ơi mái tóc thề
    Mùa xuân nay làn gió có về
    Vỗ về hương xưa đêm nao học dưới
    Học dưới trăng mờ giòng chữ hững hờ

    Thoảng nghe tiếng hài của em
    Tiếng hài của em, tiếng hài của em
    Như sương lắng đọng lắng đọng trên thềm
    Trên thềm ngõ sau ngõ sau

    Em cười đem lại cho nhau
    Đem lại cho nhau, đem lại cho nhau
    Sợi tơ mớ tóc ối a buộc vào
    Buộc vào với hoa, hoa ngâu vàng

    Ngủ quên trên sách mơ màng
    Tập sách thơm ngoan
    Áp má mê man gió lùa tỉnh dậy
    Mùi Lan chập chờn ẩn Lan ơi
    Em dỗi em hờn

    Ẩn Lan ơi em dỗi em hờn
    Ẩn Lan ơi như những cơn buồn
    Nỗi buồn thơm lâu em ơi gọi em
    Là đóa hoa sầu là Đóa Hoa Sầu

    GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU. VŨ-KHANH TRÌNH BÀY.

    ReplyDelete
  86. QH ơi ! KV " ừ " liền đây . Bây giờ KV đang chờ đọc bài thơ của bạn S@ đó nghen ! .

    ReplyDelete
  87. GIẤU HỘ EM

    Dòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ
    Cuộn dùm em cả một mớ tơ lòng
    Giấu hộ em cho hết những nhớ mong
    Những say đắm tình đầu không trọn vẹn.

    Ủ kín hương của những lời thề hẹn
    Hạnh phúc ơi! Sao nghèn nghẹn trong chiều
    Dòng sông xưa dung chứa biết bao điều
    Những hoài niệm, biết bao nhiêu mất mát!

    Sông chứa cả chút hồn em tan nát
    Em xẩy tay rơi thơm ngát tình đầu
    Đến với em lộng lẫy những sắc màu
    Ngày tháng cũ sao nhìn đâu cũng thấy.

    Nhớ thuở đó ta ngại ngùng biết mấy!
    Đất trời kia như cũng dậy hương yêu
    Ánh mắt anh muốn nói biết bao điều
    Ngồi bên nhau trong bóng chiều mờ mịt.

    Giấu hộ em nụ hôn đầu cuống quít
    Anh dịu dàng run rẩy vít môi sen
    Em tưởng đâu đang ngây ngất hơi men
    Hương tình ái sao bỗng quen bỗng lạ!


    s@...

    ReplyDelete
  88. Cám ơn bạn S@ với bài thơ "Giấu hộ em". Một bài thơ tình thật hay và rất lãng mạn
    Trong bài thơ TUỔI HOÀNG HÔN của Vân , thành thật mà nói KV không nhớ mối tình đầu, nếu có thì cũng nhẹ nhàng thôi, mặc dù mối tình đầu ai cũng có và cũng nhớ cả, nhưng nỗi nhớ trong Vân nhiều nhất mà Vân đề cập đến trong thơ chính là những thăng trầm , nghiệt ngã đắng cay mà Vân gặp phải từ khi từ giã tuổi thơ ngây để bước vào đời, nhất là khoảng thời gian 20 năm nơi xứ người.Có những lúc buồn đau , Vân thật sự nhớ cha mẹ , anh em và quê nhà, thèm khát được trở lại thời thơ ấu ghê lắm ! Nghĩ cho cùng , nỗi đau của mình so với những người khác hãy còn nhẹ mà! Quanh mình bao nhiêu người còn gặp phải những nghiệt ngã đắng cay hơn Riêng mối tình đầu của Vân thì thật sự nhẹ nhàng trong sáng chứ không đắm say, các bạn thơ ạ ! Chính vì vậy về thơ tình Vân nhận thấy mình làm không hay được . Thật sự là thế đó!

    ReplyDelete
  89. Cám ơn lời khen của bạn thơ KHÁNH VÂN về bài thơ.

    Tôi chỉ ngỏ ý xin câu thơ đầu để viết vài câu thơ theo ý riêng của mình chớ không có ý họa lại bài thơ của bạn nên ý của hai bài thơ khác nhau.

    Lại xin phép “nhiều chiện” một chút về cụm từ “Mối Tình đầu”.

    Hầu như ai cũng nghĩ rằng khi có nảy sinh tình cảm giữa nam nữ lần đầu tiên đã vội mặc áo tình nhân cho nó nên cho đó là Mối Tình đầu.
    Không đúng đâu! Theo tôi, khi đó chỉ mới...Hình như là Tình Yêu thôi! Thuở đó, các cô cậu ở tuổi mới lớn thì biết gì về Tình Yêu mà đã vội vàng mạo nhận như thế? Nó sắc màu ra sao? Nó đắm say cỡ nào? Nó đem lại hạnh phúc và đớn đau độ nào thì có mấy ai biết? Cứ có chút thoang thoảng nhớ nhung là đã gọi là Tình Yêu.

    Dù đã trải qua dăm ba sự liên hệ tình cảm trên mức bình thường nhưng chưa hẳn đó đáng gọi là Tình Yêu.
    Thi sĩ tiền chiến há chẳng phải thốt lên “Làm sao định nghĩa được Tình yêu” đó sao?

    Tôi cũng có câu trả lời riêng của mình về mệnh đề đó, nhưng vô phép giữ lấy cho mình vì chưa chắc đã đúng với nhiều người khác. Đắm say thôi chưa đủ để nói về nó mà phải có sự trân trọng tuyệt đối nữa.

    Yêu theo cái kiểu “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” thì tiêu cực quá!

    ReplyDelete