KhanhVan oi (xin loi ban cai may lam reo dau dau mat tieu) Bai tho KV nhu mot tieng tho dai "mau di vang benh bong noi cuoi neo" Dung la ai cung co mot thoi thanh xuan day tiec nuoi uoc mo "doi yeu thuong con xanh muot tuoi tho",cai tuoi tuong chung nhu lat ca the gioi,doi da va troi,nhung rieng Thth thi thay tuoi hoang hon co nhung cai can phai lam qua,cac ban sao chu ThTh ngay di lam 9,10 tieng,phai di exercise(bac si dan)roi cho bua nau nuong..cung ban ron het ca ngay,lam khi uoc ao them "gio thu 25 "nao do de duoc nghi ngoi them... Vay do KV,chia xe voi KV nhe.Than tinh
Xin mạn phép mượn sân Trang Thơ gởi đến các bạn thơ một bài viết mà tôi cho là khá thú vị bởi mấy mươi năm qua vẫn không biết xuất xứ của từ NẪU dùng để nói tới người xứ Bình Định.
Cũng có thể đã có người biết, nhưng theo thiển ý của tôi thì chắc là đa phần không rõ nguồn gốc.
Đây là một bài viết theo quan điểm chủ quan có khi không đúng hoàn toàn với sự thật, tuy nhiên nó chỉ mang tính cách là một tài liệu sơ khai để mở rộng sự hiểu biết, không hề có ý thiên vị, dèm pha nào ở đây.
NGƯỜI XỨ BÌNH ĐỊNH - TẠI SAO ĐƯỢC GỌI LÀ DÂN "NẪU"?
Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú Yên bây giờ).
Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man.
Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu.
Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm...
Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ.
Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.
Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:
Ví dụ: -Mất chồng như nậu mất trâu Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm. - Tiếc công anh đào ao thả cá Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. - Ai về nhắn với nậu nguồn Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.
Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.
Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”.
Và thế là “Nậu” được thay bằng "Nẩu".
Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất:
Ai về sông núi Phú Yên Cho nẫu nhắn gởi nỗi niềm nhớ quê.
Trước khi đề cập đến ý nghĩa bài thơ cao siêu đến bực nào thì PC xin nói về bức hình minh họa của trang chủ. Thật là công phu suy nghĩ và tạo ra được bức hình nầy, vì đọc qua bài thơ từng câu, từng câu, chúng ta khó mà hình dung ra một hình tượng rõ ràng để chọn hình. Nầy nha các bạn thử đọc từng câu:
Dòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ, Đố ai vẽ được hình trong nỗi nhớ !
Sóng thời gian làm cay mắt người xưa Theo kịp sóng thời gian cũng là chuyện ..."vi ba"
Và từng câu, từng câu tiếp theo các bạn sẽ lùng bùng trí não ngay! Nhưng toàn bài thơ toát lên được nỗi buồn tuổi xế chiều của một tâm hồn nhiều trắc ẫn, lắm "bụi muộn phiền". Vậy mà trang chủ đã tạo được bức hình, nhìn vào từng góc cạnh chúng ta sẽ nhận ra từng ý của bài thơ, và cuối cùng nhìn tổng thể là một bức tranh chiều buồn man mác.
PC phục nhất là tạo được "bụi thời gian" rơi trong khung trời chiều !
Làm bức hình nầy theo PC thì trang chủ phải mất ít nhất là 3 giờ "brainstorm" cao độ! (thế mới hiễu vì sao đau đầu triền miên)
Cả hai, bài thơ và bức hình minh hoa, thật là tuyệt kỷ ! thán phục!
Cám ơn những say mê của nghệ nhân mà chúng ta có được những tác phẩm tuyệt vời!
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”.
Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi.
Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”.
Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”.
Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là "đại từ nhân xưng" nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều. Ví dụ thay vì hỏi "Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy?" thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là "Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy?" hay "Cái nhà này là của họ" thì dân Nẫu sẽ nói là "Cái nhà nhà này là của nẫu".
Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói "Vào tận trong đó" thì nói là "Dô tuốt trỏng" hay hỏi "vậy hả?" thì hỏi là "dẫy na?", "dẫy ngheng" (vậy nghen hay thế nhé), "dẫy á" (vậy đó), "chu cha wơi" (trời đất ơi) v.v...
....Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị thì vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”. Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi... Vì sao "quê", vì ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không còn ai dùng. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: "Nậu nguồn" chỉ nhóm người trên rừng, "Nậu nại" chỉ nhóm người làm muối, "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá, "Nậu rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, "Nậu cấy" chỉ nhóm người đi cấy mướn, "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm... mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, thì cái “nậu + ấy= Nẫu”.
Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa.
Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn...khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:
Thương chi cho uổng công tình Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ.
Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì: “nẫu cừ thì kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng”.
Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch... Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình.
Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy),
Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn..................
Trong những bài thơ của Khánh Vân mà VK có dịp được đọc trên Trang Thơ này, có lẽ bài thơ Tuổi HOÀNG HÔN của KV hôm nay, mang tâm sự u hoài của Tác giả nhiều hơn hết. Những lời khen tặng của các bạn Thơ dành cho KV và Trang chủ về bức minh họa quả không ngoa chút nào . VK thấy không còn viết gì thêm nữa. Chỉ biết "NGẬM NGÙI" cho những ai khi đến Tuổi VỀ CHIỀU như VK .
KV có nói là bài thơ mới làm không được vui, thì Tuổi Hoàng hôn đúng như vậy mà. Nhiều lúc SM nhớ rõ và đầy ắp những kỷ niệm thiệt xa xưa, nhưng hỡi ôi có bao nhiêu lần vừa từ trên phòng bước xuống nhà dưới định lấy cái gì đó rồi nghĩ mãi chẳng ra, quên mất tiêu một hồi mới nhớ. Có ai đồng bệnh quên trước quên sau như thế này không? Tuổi Hoàng hôn là tuổi sắp già, hay xế bóng hay đã già.., sao SM thấy trong Trang thơ mình tâm hồn ai cũng còn trẻ quá,tiếng cười đùa vui giòn tan, rất giỏi thích nghi với hoàn cảnh của riêng mình.Thời gian vô tư chạy qua vù vù, không chừa ai hết, mình già nhưng còn có người già hơn mình mà phải không các bạn ?
thân chào các bạn thơ Khánh Vân cám ơn những lời khen của các bạn . Thật ra , khi trang trải nỗi niềm của mình, KV nghĩ sao viết vậy, không ngờ lại được các bạn thơ yêu thích. Đúng như huynh PC phân tích, bức hình minh họa của SM thật tuyệt vời, lột hết được cái sâu lắng bên trong nội tâm của tác giả. Khánh Vân cám ơn SM thật nhiều nghen ! Thiên Thanh ơi !Nghe Th. Th thật bận rộn và thèm có giờ thứ 25 nữa chứ . Chứng tỏ Th.Th còn khoẻ và còn lạc quan yêu đời lắm đó . Điều này thật đáng mừng , đúng không Th. Th ? Thân chào bạn S@! Thơ của S@ và NT lâu nay KV rất thích, nay thơ của Vân được S@ khen là KV biết mình có nhiều tiến bộ rồi đó. Huynh VIVu và huynh VK ơi ! Tuổi xế chiều thường có nhiều phiền phức xảy đến nhất là sức khoẻ. Vân có hai anh trai còn ở VN, tình hình sức khoẻ của hai anh ấy dạo này cũng tệ rồi. Mỗi lần phone về nghe hai anh than thở thấy mà thương. Sau đó mấy anh em lại nhắc lại thuở ấu thơ nghe thấy vui rồi thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất , một lúc nào đó " ánh chiều buông lịm tắt " sẽ đến với người thân , với chính ta. Thật lòng không vui gì khi nghĩ đến điều này KV thân chúc các bạn thơ luôn vui khoẻ và vạn điều an lành KV
Thiệt ra SM cũng không biết nhiều về từ địa phương "NẪU" của vùng Bình Định, Phú Yên, nay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu " Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ" nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy. Nếu nói về " Người xứ Nẫu", thế thì có đúng không khi chữ ấy vì là "đại từ nhân xưng" nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều ? Ngôn ngữ địa phương nào cũng gắn chặt với tình yêu thương đất nước con người nơi đó, chất giọng của từng xứ sở thì SM thấy khác nhau rất nhiều, dân BMT là nghe và hiểu được nhiều ngôn ngữ so với những tỉnh lỵ khác, có lẽ nhờ người dân tứ xứ về sinh sống càng ngày càng đông, tạo thành một xã hội với nền văn hóa đa dạng cho vùng trù phú cao nguyên.
Hẳn NT cũng đồng ý khi suy nghĩ làm một bài thơ mà mình chỉ hiểu một chiều nào đó cho riêng mình, còn người khác đọc bài thơ có khi lại hiểu theo một chiều hướng khác mà chính tác giả cũng ngạc nhiên không ngờ. Hôm nay trường hợp SM cũng vậy, đọc bài thơ man mác buồn của Tuổi Hoàng hôn, dòng thơ mang ý lạ khác với thường ngày của KV, SM đọc đi đọc lại vài lần, sao cho hòa mình với những tâm tư chia sẻ, rồi tính tới chuyện của mình với những hình ảnh cần thiết phối hợp khi minh họa một bài thơ. Tiếc là kho hình riêng của SM không đủ để đáp ứng nên dành thêm thời gian mà search trên mạng cho tới khi chọn được hình ưng ý. Cám ơn PC đã khen tặng nhưng làm ơn cất đi dùm chữ " tuyệt kỷ" nhé,thấy nhận xét về tấm hình mà SM đây cũng giật mình luôn vì đâu có "tạo" được bụi thời gian mà chỉ chọn lựa và cảm nhận được đây là cảnh sắc tương đối phù hợp với ý thơ buồn tuổi xế chiều,khi ánh nắng tàn đang dần buông lịm tắt.
nay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu " Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ" nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy.
Gì mà không biết? Cứ lục lại ngăn tủ kỷ niệm từ thuở tuổi bình minh là thấy liền chớ khó gì?
Có bao giờ Bạn say ? Cái lâng lâng nhè nhẹ kéo dài ...
Hơi Thơ của "Tuổi Hoàng Hôn" và hình minh họa công phu - sự chọn lựa của màu sắc ở một "sát na của trực giác " đậm hay nhạt hơn một chút cũng không được ,một cái click của con chuột có giá trị như một tiếng búa của quan tòa ! Xong ! Là thế đấy !
Tự nhiên một bài sưu khảo về chữ "Nẫu" lạc loài - làm mất hứng !!!!!!
Giận thì giận mà thương thì thương ! Vivu nghĩ sao nóoi vậy !!!@
Huynh Vi Vu và huynh VK thân ! Tuổi xế chiều lắm điều rắc rối , nhất là sức khoẻ. Vân bây giờ cũng giống như SM vậy , hay quên lắm. Biết tuổi già đang dần đến. Nhìn các anh trai của Vân sức khoẻ đang giảm dần Vân thấy thật thương. Mỗi lần phone về VN nói chuyện với các anh , nghe các anh than thở Vân thấy lòng thật xót xa. Anh em nhắc nhau những kỷ niệm hồi còn bé , nghe thật vui thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất, một lúc nào đó "ánh chiều buông lịm tắt". Điều đó xảy đến thì thật không vui gì. KV luôn mong chúng ta mãi mãi vui khỏe và an lành
SM ơi! Tối nay Vân loay hoay với những comments, viết rồi , gửi đi nó chẳng chịu vào, đến khi viết lại cái mới , cái cũ lại hiện ra làm Vân cười vui !Nói đi nói lại hoài nghe không buồn cười sao được ?? Cám ơn bạn S@ với tài liệu về từ "Nẫu "Lâu nay Vân nghĩ đó là từ dùng cho những người miền Trung mình, ám chỉ về những người keo kiệt bủn xỉn. Dẫu sao biết thêm cũng là điều hữu ích, không sao cả huynh Vi Vu nghen !
Thiệt ra tui không có khiếu bình thơ của người khác, đôi khi những câu chữ của mình viết ra trong một phút bất chợt hiện về trong đầu rồi sau đó đọc lại chưa chắc đã rõ tường tận.
Thì cũng muốn góp mặt cùng các bạn cho vui nên tình cờ lang thang trên mạng thấy một bài viết cũng hay hay nên post lên để cùng nhau tìm hiểu sự đời.
Một bài thơ đã làm NT sững sờ khi mới đọc tựa đề " TUỔI HOÀNG HÔN " ! Bao nhiêu tuổi thì sẽ bắt đầu vào cái tuổi ấy bạn thơ Khánh Vân Mây Lành ơi ? Và rồi đến tuổi ấy dường như là chuỗi ngày sống lại với nhớ thương quá khứ Lạ thật, khi còn trẻ mình lại mong mình già (!), đến khi tuổi già đến thì lại ao ước mình về lại tuổi thanh xuân
Sương Mai à, Nghệ thuật đôi khi thành tuyệt phẩm mà tác giả không biết mình làm sao được như vậy ! Giá trị hay không là kết quả cuối cùng của những người thưởng lãm cho biết, còn cách làm thế nào thì ít ai làm lại được cho dù biết tác giả đã làm gì. PC đã làm việc và trao đổi với SM nhiều, nhưng ít khi khen như vậy (có khi còn chê nữa) nhưng trong tấm hình nầy SM đã chọn một hình rất thích hợp với bài thơ (việc nầy không dễ dàng đâu phải không ?) cho dù là...tình cờ.
Riêng bài thơ của KV thì PC khen là vì toàn bài thơ mỗi câu mang một sắc nét xem lẫn giữa cái thực và cái không thực trong từng câu, các bạn thử đọc lại lần nữa xem !
Cho dù KV không cố ý làm như thế mà nó xuất phát từ vô thức rồi viết ra, thế nên nó đồng nhất mang một ý đó là "cái chập chờn giũa thực và ảo" hay nói khác hơn là CÓ VÀ KHÔNG ! (các bạn lại mĩm cười PC rồi chứ gì?)
Thỉnh thoảng PC cũng bắt gặp những vần thơ như thế rải rác ttrong vườn thơ VN chúng ta, đôi khi người đọc đọc xong thì không gây một ấn tượng gì trong trí và không biết tác giả muốn nói gì !! Nhưng mà tác giả có muốn nói điều gì đâu? Tuổi hoàng hôn nên cái gì cũng là thực và mộng hết phải không KV? Đố ai vẽ được: "Mầu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo"!
Thế mà 12 câu góp thành một bài thơ, đó là ký do PC khen tặng !
NT thích câu thơ này của bạn thơ Khánh Vân Mây Lành nhất : Tuổi hoàng hôn dấu buồn trong tiềm thức Đến một ngày mà bóng ngã chiều tà rồi mà còn buồn thì quả là buồn thật, lại còn phải Dấu một nơi mà không ai thấy nữa " Tiềm thức " - thế thì chỉ có riêng mình ôm nỗi buồn mà thôi và nỗi buồn sẽ tha hồ trong cõi riêng tư ấy đến sầu ngập lòng ! Nhìn hình minh hoạ, NT đoán là Tuổi hoàng hôn sẽ ... vàng như thế ?! Mai em vàng Tuổi Hoàng Hôn Chẳng còn mây biếc ru hồn mộng mơ
Cách đây 50 năm ,khi còn là một cậu bé miền núi ,chỉ biết có núi rừng và những dòng suối róc rách …biết gì về sông ? biết gì về biển ?
Có một bài ca còn ấn tượng đến bây giờ … “ Chiều rơi …bên giòng sông Cửu Long …nghe một cơn ước mơ …ới …chiều …”
Đi tìm một phân tích ư ? Ở vào một thời điểm mà thiên hạ còn bàn cãi về “Nghệ thuật vị nghệ thuật ,hay là nghệ thuật vị nhân sinh ? ..”
40 năm sau , dong thuyền trên sông Hậu sông Tiền ,tìm được gì trên giòng sông cuồn cuộn chảy , nước đục phù sa … Được Huynh PC nhắc nhở một không gian giữa Thực và Ảo ,giữa Có và Không … EUREKA ! … là thế đấy !
Người đời thường nghĩ tới Vô Thường như là điều mất mát ,nhưng chính Vô Thường cũng là điều hạnh ngộ - như cô bé lý lắt nhà bên một hôm trở thành người yêu …tháng sáu !!!
Thơ - Tuổi Hoàng hôn – cũng đưa vivu về cõi ..mộng - giữa thị thành bát nháo hôm nay – tìm được một khoảng không gian …của một thủa chưa có ánh đèn neon …
Chào các bạn, Thường thì cứ sau một chuyến đi xa về, người luôn mệt mõi vì công việc và lu bu điều chỉnh thói quen thường ngày..hôm nay cũng là thông lệ đó.
Vào lại Trang Thơ, một lý thú tình cờ với bài thơ Tuổi Hoàng-hôn của Khánh Vân..là nhìn ra được sự "kết hợp tài tình giữa Thơ và Họa". Đọc bài thơ xong, đọc lại đôi lần...người đọc (QH) cãm nhận được một bức tranh được Khánh-Vân tổ vẻ, nắn nót như người họa sỹ tài danh, đã nói lên được cái tâm trạng rất là Hoàng-hôn.
Nằm bên cạnh. "Minh họa" của Trang Chủ làm bài bài thơ trở thành "TUYÊT PHẨM GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HỌA."
Mời các Bạn cùng đọc một nghiên cứu về đề tài này. Thật ngưỡng mộ. QH
SỰ KẾT HỢP, GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HOẠ Trong quá trình phát triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ cũng có tác dụng biểu hiện như thơ ca. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu và khuyết điểm khác nhau, thơ mạnh về biểu hiện thế giới nội tâm, hoạ mạnh về tính hình ảnh. Từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa thơ và hoạ, sáng tạo ra loại thơ đề tranh (đề hoạ thi) để tăng cường ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của hai loại hình nghệ thuật này. Thơ đề tranh xuất hiện từ thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, ban đầu nó tồn tại dưới dạng thơ đề trên các tấm bình phong, thơ đề trên quạt. Dữu Tín (513 – 581) được xem là người tiên phong của loại thơ đề tranh với bài 25 bài Vịnh hoạ bình phong thi. Đến thời Đường, thơ ca và hội hoạ Trung Quốc phát triển cực thịnh, xuất hiện rất nhiều bài thơ bình phẩm, vịnh tán tranh. Chỉ có điều khi ấy người ta chưa đề thơ thẳng lên tranh, mà thơ và hoạ lúc này vẫn là hai tác phẩm tách biệt nhau về hình thức không gian. Theo như Thẩm Thúc Dương, thì Tào Hy thời Tam Quốc là người đầu tiên làm thơ đề tranh Thuỷ mặc trúc thụ thạch.
Thời Đường, tranh sơn thuỷ và tranh hoa điểu có bước phát triển đột biến. Theo Phó Toàn Tông và Trần Hoa Xương, sự phát triển của tranh sơn thuỷ là kết quả ảnh hưởng của thơ sơn thuỷ, còn sự phát triển của tranh hoa điểu là kết quả ảnh hưởng từ thơ vịnh vật. Tranh sơn thuỷ thời Đường sùng thượng loại thuỷ mặc (trước đó người Trung Quốc chuộng màu xanh lục), ưa phong cách phóng khoáng tự nhiên (trước đó người ta chuộng sự tỉ mỉ, đẹp đẽ) là do ảnh hưởng thẩm mỹ tự nhiên, chân tình thực cảm của thơ Đường. Còn tranh hoa điểu thời Đường không trọng không gian - thời gian vật lý mà trọng không gian - thời gian tâm lý, không trọng việc miêu tả toàn diện, mà trọng miêu tả bộ phận cũng là do ảnh hưởng của thơ Đường. Thậm chí, màu sắc, đường nét, bố cục kết cấu của tranh thời Đường cũng chịu ảnh hưởng từ thơ Đường.
Nói về tranh hoa điểu (hoa điểu hoạ), thì thi hào Vương Duy được xem là người có những đột phá lớn. Ông vẽ hoa không chú ý tới mùa tự nhiên của hoa, cho nên cứ vẽ chung đào - hạnh - phù dung - sen là những loài hoa khác mùa với nhau vào chung một bức; hay như tác phẩm Viên an ngoạ tuyết đồ vẽ chuối chung với tuyết. Đó chính là sự đột phá của Vương Duy về thời gian và không gian, bất chấp mùa màng và địa vực khác nhau, nhằm biểu hiện không gian – thời gian tâm lý chứ không phải không gian - thời gian vật lý tự nhiên, mục đích là tạo ra một ý nghĩa mới cho tác phẩm. Đây thực tế là sự thi hoá, văn học hoá hội hoạ, bởi vượt qua không gian thời gian vật lý là thủ pháp mà thơ ca đã sử dụng từ lâu. Các nhà thơ thường kết hợp những cảnh vật khác nhau về không gian và thời gian về một chỗ, chẳng hạn: “Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân” (Cây xuân nơi Vị Bắc, mây chiều ở Giang Đông). ...
...Màu sắc và đường nét là ngôn ngữ, chất liệu đặc trưng của hội hoạ, nhưng trong thơ Đường cũng có rất nhiều câu thơ hay là do kết hợp, so sánh các màu sắc và đường nét tạo nên.
Ví dụ: - Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên (Đỗ Phủ) (Tản Đà dịch: Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc/ Một đàn cò trắng vút trời xanh) - Giang bích điểu du bạch Sơn thanh hoa dục nhiên (Đỗ Phủ) (Sông biếc chim trắng lượn/ Núi xanh hoa đỏ khoe) - Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên (Lý Bạch) (Tương Như dịch: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước/ Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Thời Tống, tính thơ trong họa, tính họa trong thơ được nhiều người chú ý. Trong tác phẩm Tuế hàn đường thi thoại, Trương Giới đã bình luận hai câu thơ: “Tái vân đa đoạn tục, biên nhật thiểu quang huy” trong bài thứ 18 của chùm 20 bài thơ Tần Châu tạp thi của Đỗ Phủ là: “hai câu thơ đã vẽ nên phong cảnh biên tái” (thử lưỡng cú hoạ xuất biên tái phong cảnh dã). Ngoài ra, Dương Vạn Lý, Phạm Thành Đại sau đó cũng nói đến tính hoạ trong thơ. Nổi tiếng nhất là lời bình của Tô Đông Pha về Vương Duy (hiệu Ma Cật) – nhà thơ kiêm hoạ sĩ tài danh thời Thịnh Đường:
“Đọc thơ Ma Cật, thấy trong thơ có hoạ. Xem tranh Ma Cật, thấy trong tranh có thơ. Thơ rằng: Khe xanh đá trắng lộ, Ngọc xuyên lá đỏ thưa, đường non mưa chẳng đến, ướt áo màu xanh xưa”.
Tô Đông Pha nhìn thấy đặc điểm của hội hoạ trong thơ Vương Duy và nhìn thấy đặc điểm của thơ trong tranh Vương Duy. Đó chính là sự thâm nhập vào nhau giữa thi và hoạ như lời Tiền Chung Thư nói ở trên. Nói cách khác, đó là sự dung hợp giữa thơ và hoạ thơ trong họa, họa trong thơ hoặc: “thi hoạ nhất trí”, “thi hoạ nhất luật”, “thi họa hợp bích”.
Sau khi Tô Đông Pha mất khoảng năm thế kỷ, Đường Thuận Chi thời Minh đã giải thích quan niệm “thi trung hữu hoạ” khi bàn về tác phẩm Trường giang vạn lý đồ quyển của hoạ sĩ Chu Thần đồng thời với ông: “Thơ Thiếu Lăng (tức Đỗ Phủ) viết: Hoa Di sơn bất đoạn, Ngô Thục thuỷ thường thông (Hoa Di núi bất tận, Ngô Thục sông mênh mông). Chỉ hai câu mà tả được phong cảnh vạn dặm của dòng Trường giang. Thật đáng gọi là trong thơ có hoạ vậy”.
Từ thời Tống và Nguyên về sau, phong trào sùng thượng thơ và hoạ lên cao, nhiều nhà thơ kiêm hoạ sĩ, nhiều hoạ sĩ thư pháp kiêm nhà thơ, thơ đề hoạ phát triển mạnh mẽ, tạo thành tình hình: Thi – Thư - Hoạ tam hợp. Thời Tống, phong trào vẽ tranh thủy mặc “tứ quân tử”: Mai - Lan - Cúc - Trúc phát triển rất mạnh, theo như sách Tuyên Hoà hoạ phổ cho biết thì thời kỳ này có đến hơn một nửa số hoạ sĩ kiêm văn nhân. Tô Đông Pha là thi hào số một thời Tống, nhưng ông cũng là một hoạ sĩ chuyên vẽ trúc và mai thủy mặc, ông còn dùng tranh để “tải đạo” (chú ý đến tác dụng xã hội của hội hoạ) và thường ví mình với trúc (tượng trưng cho bậc quân tử thanh cao), quan niệm: “thi hoạ bản nhất luật” (thơ họa vốn như nhau). Số tranh Tô Đông Pha để lại không nhiều, nhưng quan niệm, chủ trương của ông về hội hoạ đương thời có ảnh hưởng rất lớn.
Trong quá trình sáng tạo, các thi nhân cũng như các họa gia đều muốn mở rộng phạm vi, biên độ của thơ và tranh, thậm chí cái này còn muốn thâm nhập, dung hợp cái kia. Như Tiền Chung Thư viết: “Tất cả nghệ thuật đều dùng chất liệu nào đó làm phương tiện thể hiện. Mà tính chất cố hữu của chất liệu, một mặt tiện lợi cho việc thể hiện, nhưng đồng thời mặt khác cũng phát sinh những trở ngại hạn chế việc thể hiện ấy. Vì thế các nhà nghệ thuật luôn luôn muốn tìm cách vượt qua những trở ngại hạn chế, không chịu sự trói buộc hoàn toàn vào chất liệu. Ví dụ như chất liệu của hội hoạ là màu sắc và đường nét có thể thể hiện những hình ảnh cụ thể, nhưng những hoạ sĩ lớn không chỉ dừng lại ở việc thể hiện những hình ảnh cụ thể như vậy, mà họ còn muốn “tả ý”; chất liệu của thơ và ngôn từ, dùng để trữ tình tả ý, nhưng những nhà thơ lớn không chỉ muốn dừng lại ở việc “ngôn chí”, mà họ còn muốn thơ phải có cả tác dụng miêu tả hình ảnh như hội hoạ để người đọc thưởng thức. Thơ và hoạ đều có ý đồ thâm nhập lẫn nhau” (Trung Quốc và hoạ Trung Quốc).
...Hội hoạ không những chỉ kết hợp với thơ ca, mà rất nhiều khi còn kết hợp với thư pháp, bởi thư pháp cũng là một loại nghệ thuật đặc biệt của người Trung Quốc. Chữ viết lúc này không chỉ là “cái vỏ của tư duy”, không chỉ có chức năng chuyển tải thông điệp bình thường, mà nó còn có chức năng thẩm mỹ tự thân. Cho nên thơ đề trên tranh cũng thường được viết bằng loại chữ nghệ thuật (tức thư pháp). Trong một tác phẩm hội hoạ có cả ba nghệ thuật: thơ ca, hội hoạ, thư pháp và chúng hoà quyện, bổ sung, thống nhất với nhau, chúng có tác dụng làm tăng ưu điểm đồng thời làm giảm khuyết điểm cho mỗi loại nghệ thuật. Hoạ sĩ đương đại Ngô Tác Nhân nói: “thơ cũng là hoạ, hoạ cũng là thư, ba thứ ấy đều có diện mạo riêng, mà cũng có những điểm tương ứng. Tuy chúng bổ sung cho nhau, nhưng mỗi thứ đều có một hình thức độc lập”. Tô Đông Pha bình luận tranh vẽ trúc của Văn Đồng là: “Thơ không thể nói hết thì thêm thư, thêm hoạ”, Dương Công Viễn thì nói: “Cảnh khó vẽ thì lấy thơ mà bổ khuyết, thơ không nói hết ý thì lấy hoạ mà bổ sung”, thi nhân Ngô Long Hàn lại nói: “Cảnh khó vẽ thì thêm thơ, lời khó diễn tả thì thêm hoạ” Nếu thơ kết hợp với một nội dung, một nghệ thuật nào khác sẽ tạo ra đặc tính tương ứng cho thơ. Ví dụ thơ thiên về những nội dung lịch sử thì có loại “thi sử”; còn thơ gắn với họa, giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét thì tạo thành loại “thi hoạ”. “Thi hoạ” chính là khái niệm do Thiệu Ung thời Bắc Tống sáng tạo ra, trong bài Thi hoạ ngâm, ông viết: “Hội hoạ sở trường tả vật, chuyển tải màu sắc. Màu sắc đạt đến mức điêu luyện thì hình ảnh của vạn vật tất sẽ hiện ra. Thi hoạ giỏi tả vật và cũng giỏi chuyển tải tình cảm. Tình cảm đi vào câu thơ hay thì tình của vạn vật sẽ hiện ra”. Quan niệm “tình cảnh kiêm dung” này còn được Tư Không Đồ thời Vãn Đường nói thêm trong thư gởi cho Cực Phố: “Dung Châu nói rằng; Cảnh của nhà thơ như ngọc Lam Điền toả sáng, chỉ có thể ngắm chứ không thể đặt trước mắt cho thấy được. Đó chính là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, khó có thể nói rõ được”. Tính hoạ trong thơ mà Tư Không Đồ nói, chính yếu là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, con người chỉ có thể cảm nhận nó bằng cách tưởng tượng chứ không thể ngắm nó rõ ràng như ngắm một bức tranh bằng thị giác.
Nhà thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn cố gắng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ nhằm tái hiện lại hình ảnh sự vật sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến cái thần, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh. Cho nên trong thơ luôn có hai phần: tình và cảnh, mà người ta thường dùng cảnh để ngụ tình. Bởi vậy kết cấu của một bài thơ bát cú thời Đường thường là phần trước tả cảnh, phần sau tả tình; trong đó phần tả cảnh rất giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét khiến người đọc như thấy trước mắt hiện lên một bức tranh sống động. Ví dụ bài Đăng cao quen thuộc của Đỗ Phủ:
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai Chử thanh sa bạch điểu phi hồi Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận Trường giang cổn cổn lai Vạn lý bi thu thường tác khách Bách niên đa bệnh độc đăng đài Gian nan khổ hận phồn sương mấn Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
(Nam Trân dịch: Gió gấp trời cao vượn nỉ non/ Bến trong cát trắng, lượn chim cồn/ Rào rào lá trút rừng cây thẳm/ Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn/ Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não/ Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn/ Gian nan khổ hận đầu thêm bạc/ Quặt quẹo đành kiêng chén giải buồn). ...
...Rõ ràng trong bài thơ trên bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh, còn bốn câu thơ sau chú ý biểu hiện tình cảm. Nhưng cũng có khi trong một bài tám câu thì có tới sáu câu tả cảnh, còn hai câu cuối tả tình, như kiệt tác Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu. (Tản Đà dịch: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu/ Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ/ Hạc vàng bay mất từ xưa/ Nghìn năm mây trắng bây giờ vẫn bay/ Hán Dương sông tạnh cây bầy/ Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non/ Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Trong khi đó, ở thể tứ tuyệt, tình và cảnh thường hoà trộn vào nhau, ít khi tách biệt rõ như ở thể bát cú. Ví dụ bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch: Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến trường giang thiên tế lưu. (Ngô Tất Tố dịch: Bạn từ lầu Hạc lên đường/ Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng/ Cánh buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời). Bài thơ tả cảnh tiễn đưa mà hiện lên như một bức tranh đầy hình ảnh: cố nhân, Hoàng Hạc lâu, yên hoa, cô phàm, bích không, trường giang. Gợi hình, liên ảnh là đặc tính của thơ ca nói chung, chứ không riêng có ở thơ ca Trung Quốc. Ví dụ một bài haiku của Hài thánh Basho ở Nhật thế kỷ XVII (bản dịch của Nhật Chiêu): Ao cũ Con ếch nhảy vào Vang tiếng nước xao. Hoặc một bài Sijo Ngưỡng đình đoản ca của nhà thơ Triều Tiên thế kỷ XVI là Song Sun: Hoàng hôn chim về tổ Trăng non mọc đằng đông Trên chiếc cầu cô độc Một thiền sư thong dong Ngôi chùa nơi nào nhỉ? Chỉ nghe vẳng tiếng chuông. Hay bài bát cú Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan ở Việt Nam thế kỷ XIX: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Còn mảnh tình riêng ta với ta. Chính tính chất giàu hình ảnh, đường nét đã khiến cho thơ ca gần với hội hoạ. Nhiều bài thơ đã được những hoạ sĩ sau này chuyển thể thành các bức tranh đặc sắc. Dù rằng hội hoạ khó thể hiện được “tiếng nước”, “tiếng chuông”, hay nỗi “nhớ nước”, “thương nhà” trong thơ, nhưng điều đó cũng chứng minh rằng ranh giới giữa thơ ca và hội hoạ chưa bị xoá nhoà. Hay nói cách khác, điều đó nói lên sự kỳ diệu của thơ ca. ...
Ở Nhật Bản trước thế kỷ XX, hội hoạ phát triển mạnh với những tên tuổi lẫy lừng. Ví dụ hoạ sĩ sơn thuỷ Sesshu Toyo (1420 – 1506) được xem là Leonardo da Vinci của Nhật Bản, rồi từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX là thời hoàng kim của tranh khắc gỗ với các hoạ gia nổi tiếng: Harunobu, Utamaro, Sharaku, Hokusai, Hiroshige. Ở Triều Tiên, thế kỷ XVIII – XIX cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của hội hoạ với nhiều tên tuổi vang dội như: Kim Hong Do, Kim Duk Sin, Yu Suk, Sin Yun Pok, Kim Jun Kun… Tuy loại thơ đề hoạ ở Nhật Bản và Triều Tiên không phát triển mạnh mẽ bằng Trung Quốc, nhưng vượt hẳn so với Việt Nam. Bởi ở Việt Nam từ thế kỷ XIX về trước, thơ ca phát triển rất mạnh, nhưng riêng hội hoạ, thư pháp lại gần như không khởi sắc, dường như không có hoạ sĩ lớn nào mà chỉ có các “thợ vẽ” với loại tranh dân gian kiểu Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng… Do vậy loại thơ đề hoạ ở Việt Nam chỉ xuất hiện rải rác, chẳng hạn bài tứ tuyệt Đề Bá Nha cổ cầm đồ (Đề bức tranh Bá Nha gảy đàn cầm) của Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV: Chung Kỳ bất tác chú kim nan Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn (Nguyễn Khuê dịch: Vàng đúc Chung Kỳ có dễ sao/ Một mình dưới nguyệt gảy đàn dao/ Đêm thanh trời mát xanh như ngọc/ Lạnh lẽo chằm xa tiếng hạc nào). Hay bài bát cú Đề tranh Tố nữ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương: Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Đôi lứa như in tờ giấy trắng Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh Xiếu mai chi dám tình trăng gió Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh Còn thú vui kia sao chẳng vẽ Trách người thợ vẽ khéo vô tình. Sang thế kỷ XX, hội hoạ Việt Nam phát triển khá mạnh với nhiều tên tuổi lớn, nhưng lúc này thơ mới đã chiếm chỗ của thơ cũ, thơ mới và hoạ mới tồn tại theo khuynh hướng độc lập nên loại thơ đề hoạ ở Việt Nam cũng không có duyên phát triển. Những bài như chùm Đề bốn bức tranh (Cây thông, Diều hâu đậu đỉnh núi, Mai nở dưới trăng, Rặng liễu) của Trần Tuấn Khải đầu thế kỷ XX quả thực không nhiều. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bài tứ tuyệt Rặng liễu: Nước nước non non khéo hữu tình, Rèm thưa khép mở cánh ba sinh, Đêm xuân trăng gió lòng tơ vướng, Trong kiếp phồn hoa hỏi có mình? Những viện dẫn trên đây cũng cho thấy, ở Việt Nam vắng bóng loại thơ của hoạ sĩ cũng như không thấy sự xuất hiện loại tranh của văn nhân, tuy nhiên thơ đề hoạ vẫn tồn tại dù khá hiếm hoi. Có thể nói hội hoạ ở Việt Nam trước thế kỷ XX không phát triển dẫn đến thơ đề hoạ ở ta cũng yếu, cho nên các nhà thơ Việt Nam đã phải đề thơ lên tranh của nước ngoài (Trung Quốc) như trường hợp của Nguyễn Trãi, Trần Tuấn Khải hoặc đề thơ lên tranh dân gian như trường hợp của Hồ Xuân Hương, Phạm Thái. Thậm chí chúng tôi còn cho rằng thực chất của những bài thơ vừa dẫn trên là loại thơ vịnh hoạ (thơ ở ngoài tranh), chứ không phải thơ đề hoạ (đề thơ trực tiếp lên tranh, thơ trở thành một bộ phận gắn liền với tranh).
Cũng do vậy, thơ đề hoạ (hay nói đúng hơn là thơ vịnh hoạ) ở Việt Nam thiên về biểu hiện tư tưởng tình cảm mà người sáng tác đã “mượn” bức tranh như một cái “cớ” để bộc lộ nỗi niềm của mình hơn là để “bổ khuyết” cho tranh.
* Chú thích:
- Những bài thơ, đoạn trích trong bài trên nếu không đề tên người dịch, đều do chúng tôi tạm dịch.
- Bức tranh minh hoạ trên đây là 山路松声图 (Sơn lộ tùng thanh đồ: Tiếng tùng trên đường non) của tài tử Đường Bá Hổ (1470 – 1524) thời Minh. Bốn câu thơ đề bên phải bức tranh là:
女几山前野路横 松声偏解合泉声 试从静里闲倾耳 便觉冲然道气生
Nữ Kỷ sơn tiền dã lộ hoành Tùng thanh thiên giải hợp tuyền thanh Thí tòng tĩnh lý nhàn khuynh nhĩ Tiện giác xung nhiên đạo khí sinh.
Câu chuyện này đã được truyền tụng trong dân gian từ lâu...
Ngày xửa ngày xưa... xưa lắm! Tại một làng nọ có cặp chiến hữu hoàn cảnh khá giống nhau. Cả hai đều ly nông từ lâu nhưng lại bất ly hương. Khốn nỗi ở cái xứ bước ra là ruộng bước vào là nương này mà không biết cày, biết cấy thì xóa đói cũng chẳng xong chứ nói gì giảm nghèo. May mắn là cả hai đều có vợ đảm đang tần tảo. Nhưng bám gấu váy đàn bà mãi cũng nhục, sau nhiều độ nhậu lâm ly bi tráng nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu... lẫn nhau, cả hai mới phát hiện rằng đàn ông tay nào cũng nhậu cả nên quyết định đi buôn rượu. Nghe chồng phân tích, một vốn bốn lời, thị trường rộng mở, gương mặt hai chàng đỏ gay múa tay múa chân minh chứng rõ rệt, hai cô vợ thấy cũng có lý nhưng cũng cố vặn vẹo: - Lỡ ế thì sao? - Không bao giờ! Vợ có thể ế chứ còn rượu thì không. Cùng lắm thì tụi anh sẽ ráng... uống hết! Câu trả lời hoàn toàn thuyết phục. Dầu sao họ cũng uống, lỡ kẹt thì uống rượu nhà giá gốc lại khỏi phải lo ngộ độc. Vốn là người chịu khó chịu thương, hai cô bàn với nhau cùng hợp tác nấu rượu cho chồng đi bán. Gia cảnh cũng chẳng khấm khá gì lại phải vay vốn để sản xuất nên cả hai rất tiết kiệm: gạo mua tận gốc, củi lửa tận dụng, hèm dùng nuôi heo... để giảm giá thành. Hôm tiễn chồng lên ghe với chum rượu, bao gạo, bịch khô... và một đồng bạc tích cóp từ lâu, hai cô sụt sùi dặn dò ráng tằn tiện, luôn nhớ câu “tiểu phú do cần”...
Chiều xuống, giữa mênh mông sông nước, không ai dòm ngó, hai chàng bỗng cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa. Nuốt ực một cái, chàng A bậm môi quẳng ra đồng bạc: - Bán tôi một lít! B hí hửng đong và cả hai bắt đầu nhâm nhi... Vừa cạn lít đầu tiên, nhìn con cá khô mặn mới chỉ mất cái đầu, anh B tức tối móc đồng bạc ra dằn mạnh: - Anh em mình dãi dầu mưa nắng để làm giàu mà họ trả công quá bèo. Lấy thêm lít nữa! Lúc này đến phiên chàng A cặm cụi đong... Chiếc ghe cứ thế xuôi dòng, đồng bạc chạy qua chạy lại, rượu cứ vơi dần... Sau ba ngày mua bán lòng vòng, chum đã cạn queo. Hai chàng bèn múc nước sông đổ vào, quay ghe về bến. Nhìn chồng hốc hác hẳn đi sau ba ngày buôn rượu báo cáo kết quả kinh doanh với đủ mọi lý do khách quan như trời mây, sông nước, tại chất lượng hàng... vô cùng thuyết phục, nhưng vẫn bán tin bán nghi, một nàng vốn hời hợt giở chum ra xem qua thấy vẫn còn đầy sóng sánh nên thông cảm bỏ qua. Cô kia đáo để hơn, chấm ngón tay vào nếm thử, biết ngay sự việc. Nhưng xấu chàng cũng hổ thiếp, nên đành ngậm tăm, chờ đến khuya mới lôi nhau ra xử lý nội bộ! Được vài ngày, hai chàng lại ỉ ôi hứa hẹn sẽ rút kinh nghiệm, vừa học vừa làm... Lỡ phóng phải theo, hai cô vợ lại tiếp tục vay vốn, còng lưng nấu rượu cho chồng đi buôn cho đến khi lụn bại!
Mỗi lần “ôn thần miệt dưới “ bước vào Trang Thơ thì đã say bí tỉ !!! Tuổi Hoàng Hôn hay Tuổi Hạc gì thì cũng trôi qua như mây trời lãng đãng …còn lại Tuổi Thơ ..ngây cụ …
Đọc bài Thi và Họa của học giả QH và Đi buôn rượu của anh Sao mà …ước gì có ngày gặp gỡ cụng ly “dạ quang bôi “ (cứ cái gì làm bằng thủy tinh trong suốt mà đựng được rượu – thì gọi là dạ quang bôi - phải vậy không ? ) “Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá ! Rồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ? Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ?? (Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)
…. Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau , Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …” -Quá đã !!! cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được ! …. Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
Và anh S@ ơi ! Theo nghiên cứu thì tiếng Việt ta có “Sao Tua chín cái ối a nằm kề …” vậy mà ở bên Nhật đếm được có sáu cái - Tua rua - tiếng Nhật là Subaru …
“Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá ! Rồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ? Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ?? (Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)
…. Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau , Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …”Quá đã “ cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được ! …. Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
Dể gì mà "Ông Trời con, hạ cố Trang Thơ mấy lần trong một bài thơ, mà còn chất vấn, y chang như là ...Quốc hội" ...
Cho nên "nhứt định" phải , đáp, giải đàng hoàng chứ không ấm ớ hội tề được...mấy khi mà " Ông Trời...con" hạ cố chứ phải không các Bạn.
Bài thơ của Bà Huyện thì không có tranh minh họa, mà Bà thì không vẻ tranh rồi đề thơ lên trên đó như mấy ông ba tàu, thành ra thơ của Bà là "THƠ LÀ TRANH" chứ không là "THI HỌA".
Chúa Nguyễn Phúc Chu đến Ngũ-Hành-Sơn và làm bài vịnh Tam Thai thính triều đi vào lịch sử. mà "Ông Trời con" cho quá đã, chứ còn bài Vịnh Ngũ Hành Sơn của nữ sĩ Bang-Nhãn..thì sao? Bài thơ cũng như tranh của Bà..hỏng quá đã sao?
Vịnh Ngũ Hành Sơn
Cảnh trí nào hơn cảnh trí này, Bồng Lai tiên cảnh hẳn là đây. Núi chen sắc đá pha màu gấm, Chùa nức hơi hương khói lộn mây. Ngư phủ gác cần ngơi mặt nước, Tiều phu chống búa tựa lưng cây. Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách, Vút mắt Trường Sơn ác xế tây.
Bà Bang -Nhãn Đầu thế kỷ XIX những bài thơ Nôm mang âm điệu hoài cổ như Thăng Long thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà... đã khiến cho bà huyện Thanh Quan trở thành một nữ sĩ danh tiếng thì cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của những bài thơ "Qua cửa Hàn", "Vịnh Ngũ Hành Sơn" đã đưa bà Bang Nhãn bước lên một vị trí xứng đáng trên văn đàn. Bang Nhãn là gọi theo tên chồng, bà tên là Lê Thị Liễu (1853-1927), quê làng Phụng Trì, nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi bà cất tiếng khóc chào đời vừa mới 5 năm thì thực dân Pháp đã nổ súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng đất nước ta, từ đó cho đến suốt cuộc đời bà phải sống trong cảnh nước nhà bị chìm đắm trong nô lệ. Chồng bà là ông Phan Quỳ, một người nổi tiếng hay chữ ở đất Quảng Nam, quê làng Gia Cốc, nay thuộc xã Đại Minh cùng huyện với bà. Ông Quỳ làm chức Bang tá, con đầu đặt tên Nhãn. Ngày trước, người ta thường lấy tên con đầu để gọi cha mẹ nên ông Quỳ được gọi là ông Bang Nhãn.
Vạn Lý Trường Thành...BẤT ĐÁO TRƯỜNG THÀNH PHI HẢO HÁN câu này thì thiệt là quá "lố bịch"...như Tàu. Hưng-Đạo Đai Vương Trần-Quốc-Tuấn đâu có .."đáo trường thành.." Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
...Câu hỏi này làm cho QH, sáng nay "bỏ chuyện hổn độn nhân gian" mà tới luôn với "THƠ NHẠC' hay là "NHẠC THƠ"..
Thường thì ta thấy nhiều người viết Nhạc là người làm Thơ, sau đó nhà thơ mời một nhạc sĩ phối âm.
Đôi khi ta thấy người làm thơ, chỉ làm thơ thôi...và người nhạc sĩ vì yêu bài thơ đó..mà phổ nhạc rất phổ biến.
Có một số ít Nhà thơ, là ngườ vẻ tranh (họa sỹ) và kiêm luôn người viết nhạc.
Bửa nay mình nói chuyện là một "nhà tu", trước tăng, sau cư sĩ, làm thơ như vẽ tranh và được người làm nhạc phổ thành những ca khúc bất tử...Thầy tu Phạm Thiên Thư.
Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long (1 tháng 1 năm 1940- ). Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức thâm thúy về đạo Phật. Ông được coi là "người thi hóa kinh Phật" (dịch kinh Phật ra thơ) và là tác giả của nhiều bài thơ phảng phất triết lý mà ông đã tin theo. Nhiều thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, và trở nên phổ biến trong công chúng, có thể kể đến Ngày xưa Hoàng Thị, các bài Đạo ca...
Mời đọc bài nghiên cứu của Thái Tú Hạp về
PHAM-THIÊN-THƯ: NON CAO TÌM ĐỘNG HOA VÀNG. Những nhà chân tu Phật giáo ngày xưa quan niệm đi vào con đường Tôn Giáo phải xuất thế tìm nơi non cao tĩnh lặng để theo đuổi cuộc hành trình ngắn ngủi của một kiếp người. Một kiếp nhân sinh tạm bợ bằng thân xác đầy dẫy những sinh lão bệnh tử, thật cô đơn tội nghiệp hoang vu đến vô cùng buồn thảm. Nơi nương tựa thực tiễn chỉ còn cách quay về với chính cái Tâm sâu thẳm, để truy tầm sào huyệt Tâm Trí An Bình. Khi đã ngộ Tâm Chánh Niệm lúc đó mới đạt đến niềm hạnh phúc viên mãn trong đời sống. Nhiều Thiền sư đã diện bích để soi tâm, tìm chính con đường Tâm đạo:
Diệu tính hư vô bất khả phàn Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Liên phát lô trung thấp vị càn. (Thi Tịch)
Tính không huyền diệu vô vàn Tâm không ngộ được nghĩ bàn gì đâu? Núi cao ngọc cháy đậm màu Trong lò sen thắm cho dầu lửa thiêu... (Lời Dạy Trước Khi Mất - Thiền Sư Ngộ Ấn)
...Trong kinh Phật còn viện dẫn “Chiến thắng ngàn quân không bằng tự chiến thắng mình. Đó là chiến công oanh liệt nhất”. Ông Phạm Thiên Thư như một đạo sĩ xuống núi từ Chùa Pháp Hoa và ông như người rao giảng thâm thúy về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... nhất là ông đã thi hóa Kinh Kim Cương Bát-Nhã quả là một hành động phi thường.
Mầu nhiệm thay Kim Cương! Lạ lùng thay Kim Cương... ...Ước gì lòng tôi biến thành Kim Cương để phá tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để kết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.
Phải chăng đấy là cái tâm “Ứng vô sở trụ mà Sinh” nó đã dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đã làm sao cho Thái Tông khoát nhiên tự ngộ vai trò lãnh đạo nhân dân “dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục”. Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngõ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:
“Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý Bạch vân xuất tụ bản vô tâm” (Giáo sư Nguyễn Đăng Thục giới thiệu Phạm Thiên Thư).
Những nhà thơ Phật giáo đa số thường thi triển nguồn cảm hứng dựa trên nền tảng tôn giáo và thiên nhiên, nhất là những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... và các bậc thiền sư này đã tạo cho giòng văn học Việt Nam càng phong phú, giá trị và sâu sắc hơn những nét đặc thù của mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và dân tộc. Sự xuất hiện bất ngờ khoảng thời gian 1969 với ba ngàn hai trăm năm mươi bốn (3254) câu thơ Trường Thiên lấy tên “Đoạn Trường Vô Thanh” được xem như hậu Truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn Du. Liên tục những năm sau Nguyễn Du có Chiêu Hồn, ông có Chiêu Hồn Ca, Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu, Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... Phạm Thiên Thư xuất hiện rất muộn và lại ngưng rất sớm, nhưng ông đã đóng góp vào giòng văn học Việt Nam những thành tích không nhỏ. Một trong những tác phẩm này, Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc vào năm 1971. Người đời đã bắt đầu yêu thơ ông qua những thi phẩm “Ngày Xưa Hoàng Thị” “Động Hoa Vàng”... được nhạc sỹ Phạm Duy phổ thành ca khúc. Cuộc chiến đang đến hồi bùng vỡ ở nhiều mặt trận cao nguyên, miền địa đầu giới tuyến, mỗi ngày đều nhìn thấy những chiếc trực thăng trắng chở những chiến sĩ bị thương từ chiến trường về những bệnh viện ở những thành phố miền Nam, tâm trạng thanh niên hoang mang, cảm thấy đời sống buồn bã, thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như viên thuốc an thần:
...Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say... Ừ, thì mình ngại mưa mau Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi Sông này chảy một giòng thôi Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông... ...Ta về rũ áo mây trôi Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan... ...Thì thôi! tóc ấy phù vân Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương ...Mai anh chết dưới cội đào Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu... (Động Hoa Vàng)
...Tôi cũng đồng ý qua nhận xét của nhà văn Võ Phiến: “Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi, rước em nọ... thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em nầy em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới Kinh Hiền, Kinh Ngọc, không biết chuông mõ gì ráo, thì trong kho tàng thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt đi chứ...” Tam Đảo Hạnh Phu (Yukio Mishima) một trong những nhà văn nổi tiếng của Nhật, ông có viết một truyện ngắn với nhan đề “Chuyện Tình Của Nhà Sư Chùa Shiga” ông đã diễn tả cái nghịch lý ghê gớm xảy ra trong nội tâm của một thiền sư giữa tình yêu và đạo lý... Cuối cùng “Thiền sư đã quyết định từ bỏ tất cả để ra đi. Lòng Thiền sư thật bình thản, trống không. Cái trống không thật viên mãn vì ông đã chiêm nghiệm được ở cái hố thẳm vô cùng tận đó chỉ là Sắc, Không...” Cái điều ỡm ờ nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho thế gian ngẩn ngơ, hoài nghi cái chân lý ông đang đeo đuổi. Một ông sư đã biết yêu và biểu lộ tình yêu một cách quá quắt khác thường, lãng mạn còn hơn những chàng trai bình thường mới biết yêu:
...Em tan trường về Anh theo Ngọ về Chân anh nặng nề Mai vào lớp học Anh còn ngẩn ngơ... ...Môi em mỉm cười Mang mang sầu đời, tình ơi! ...Ôi! Con đường về Bông hoa còn đẹp Lòng sao thấm mệt Ngắt vội hoa này Nhớ người thuở xưa... (Ngày Xưa Hoàng Thị)
...Em làm trang tôn kinh Anh làm nhà sư buồn Đêm đêm buồn tụng đọc Lòng chợt nhớ vương vương Đợi nhau từ mấy thuở Tìm nhau cõi vô thường Anh hóa thân làm mực Cho vừa giấy yêu đương... (Pháp Thân)
Mặc dù đang ở vào thời đại cuối thế kỷ 20, nhưng tình yêu đối với nhà sư Phạm Thiên Thư vẫn còn những cảm xúc thánh thiện, khép kín một chút bẽn lẽn khi hai người yêu nhau không dám gần nhau trong bàn tay nắm, vì sợ tình yêu sẽ tan biến đi như sương khói:
...Anh trao vội vàng Chùm hoa mới nở Ép vào cuối vở Muôn thuở còn vương...
...Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá Ánh sáng tuôn đầy các lối đi Tôi với người yêu qua nhè nhẹ... Im lìm không dám nói năng chi (Trăng)
Không dám nói vì sợ âm thanh tan vỡ giây phút linh thiêng tỏ tình. Tất cả sự biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng. Im lặng của thủy triều phá vỡ ruộng đồng núi non không biết chừng.
...Đôi mày là Phượng cất cao đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ tiếng nàng vỡ bạc thành thơ tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây ...dù mai lều cỏ chân trời khói hương lò cũ khóc người trong thơ em còn ửng má đào tơ tóc xưa dù có bây giờ sương bay...
Tình yêu của nhà Sư nồng nàn quá, đến nỗi con vạc bờ kinh nó cũng ghẹo nhà Sư ỡm ờ trần tục:
...Hỏi con vạc đậu bờ kinh Cớ sao lận đận cái hình không hư Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ... (Động Hoa Vàng)
Ở cái thế giới thi ca Phạm Thiên Thư chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo tình yêu và thiên nhiên, mặc dù ông chỉ mới xuất hiện một thời gian ngắn ngủi trước khi trang sử Văn Học Miền Nam xếp lại. Nhiều người tin cho biết, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn ngây thơ non dạ, thực hiện cuốn Kinh Hồng để ca ngợi chế độ mới, nhưng ông đã lầm khi ông chuẩn bị viết những trang đầu thì chính những “Đoạn Trường Vô Thanh”, “Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài”, “Kinh Ngọc”, “Kinh Hiền”, “Kinh Thơ...” bị hỏa thiêu một cách thê thảm chung với số mệnh những tác phẩm của những nhà thơ, nhà văn miền Nam mà chúng gọi “Sản phẩm văn hóa đồi truỵ của Mỹ-Ngụy”. Ông bị xem như nhà thơ đứng bên lề của “giòng thác thi ca Cách Mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Thi sĩ Phạm Thiên Thư u buồn thất vọng não nề.
“Thôi thì thôi, chỉ phù vân Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi...
Nhắc đến thuở vàng son trước 1975, ông là thi sĩ trẻ làm thơ say mê không biết mệt, có khi mỗi ngày ông có thể sáng tác mấy trăm câu thơ một cách dễ dàng. Nhà văn Võ Phiến có nhắc lại sự kiện nầy trên Tạp Chí Làng Văn xuất bản tại Canada: “...Cuốn Kinh Hiền mười hai ngàn câu ông viết trong một năm rưỡi: Việc Đạo phải nỗ toàn lực nên thế. Còn cuốn Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài gồm 111 bài thơ, ông cũng chỉ làm xong trong vòng hăm ba ngày. Mỗi ngày năm bài thơ, đều đều. Lý do gì vậy?... Không ai đi trách một người... làm quá nhiều thơ. Duy không biết có phải cái lượng làm hại cái phẩm chăng. Vì trong cái lượng đồ sộ nọ, số dở quá nhiều. Trong lắm bài có những câu thật hay lạc vào giữa các câu dở làm ta tiếc ngẩn ngơ...” Nhưng có điều còn tiếc sâu xa hơn. Ở một tài năng thấu triệt Kinh Kim Cương vi diệu cao siêu đến như thế, đã ước mơ... “Kiếp sau làm chim trong sương. Về bay hóa độ mười phương trời vàng...” thì còn bon chen gì cõi tạm phù sinh. Hãy trở về Chùa Pháp Hoa diện bích, để thôi nhìn nắng quái đang đốt cháy những đóa hoa dịu dàng lung linh trong gió thoảng. Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là khung cửa hư ngụy... thì còn thiết tha gì đối với chốn bụi hồng?//
Ghi thêm: Hội chứng nói dài. QH biết mình có bệnh..nói dai, dài...Nhiều lần chữa bệnh mà vẫn không hết và không thuyên giãm. Cho nên cứ phải nói dài dài...cho rõ chuyện.
Trang Thơ lần này thật thú vị - NT vẫn thích đi hết vòng vo cõi ta bà từ Đông sang Tây, từ một bài thơ cho đến hết mọi ngõ ngách thật của cuộc đời - bài về Nẫu ... rồi sang đến chén cổ, thơ cổ và dừng lại Cổng chùa Phạm Thiên Thư Ôi biết bao nhiêu điều học hỏi vì ... thế đấy, NT vẫn chưa biết hết và đôi khi biết rồi đọc lại vẫn còn " ngậm mà nghe " như thơ Phạm Thiên Thư Hà ... hà ... bài viết " dài và dai " của bạn thơ Phạm Thiên Thư ấy hả ... NT cất vào kho để mai mốt ngẩn ngơ tiếp !
hà hà..., nói như kiểu NT là trùng ý đây rồi, rất nhiều để học hỏi vì mình chưa biết hoặc biết lơ tơ mơ, kinh nghiệm sống cũng có đó nhưng so với những bạn mình ở đây thì chả là gì cả. Biết bao nhiêu bài viết, bài sưu tầm hay ngay trên Trang thơ này, đọc vài lần chưa chắc nhớ thì tốt nhất là cất vào một chỗ nào đó đặng khi nào có người hỏi đố mình hoặc cần "khoe khoang" trong câu chuyện rôm rả thì mình giở cái tủ ra mà ôn luyện văn võ trước ắt là lưu loát thôi.
Không biết ông thần ViVu say hay tỉnh??Coi chừng ..lại đi dành trăng với Lý Bạch tiên sinh thì thế gian mất đi một "théc méc gia "tài ba.(đùa tí nghe bác)
về PhạmThiên Thư quả là nhiều điềuchưa biết .ViệtNam mình thật nhiều những nhà THơ Họa (vừa làm thơ vửa là vẽ tranh trong thơ,người đọc cảm nhận ngay tác giả tự minh hoạ những gì mình muốn nói)
ViVu còn những thắc mắc gì nữa?để còn nghe ké với.............
Từ trước tới nay SM hiểu biết hời hợt về từ " Nẫu" , đọc qua bài sưu tầm cặn kẽ của Sao thấy mắc cỡ cho những suy nghĩ tầm thường của mình về người xứ này. Nội chỉ có câu: Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. là cũng thấy phần đông họ yêu chuộng hòa bình, bình chân như vại, thế có chút gì Thiền định phảng phất ở điểm này không các bạn? Hy vọng KV cũng bằng lòng với vụ "chiếm đất" mà nới rộng ra đưa đẩy, nói chuyện linh tinh ngoài lề Tuổi Hoàng hôn nghe.
KV im lặng lắng nghe các huynh nói chuyện đây SM và NT ơi !Đây cũng là điểu bổ ích , mở rộng kiến thức cho mình. Các huynh chiụ nói thì các tỉ muội mình chiụ nghe
Trong tất cả tác phẩm văn học kim cổ, cho đến bây giờ, NT đọc nhiều nhất là Truyện Kiều, kế đó là thơ Phạm Thiên Thư ... Hồi xưa (trước năm 75), NT có hết tất cả tập thơ của nhà thơ ấy, sang đây rồi thì không tìm mua lại được, chỉ mua lại được Truyện Kiều mà thôi . Tiếc làm sao đâu !
Hà hà, PC tưởng có một mình nhà thơ NT thích cất vào kho, nay lại có thêm người thứ 2 thì PC xin tải hàng đến tận cửa kho đây.
Để những ai ngưỡng mộ thơ Phạm thiên thư có đủ bài để thưởng thức, PC xin tải vào đây một số bài tiêu biểu đã vang danh một thời. Trước tiên nó về tác giả:
Cõi thơ Phạm Thiên Thư
Trong bài Phạm Thiên Thư, người thi hóa kinh Phật, Hà Thi viết: Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam Việt Nam) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: Em lễ chùa này, Ngày Xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu...Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ...Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên.
Hoàng Nguyên Vũ trong bài Cõi lạ Phạm Thiên Thư còn cho biết thêm: Nhà thơ Phạm Thiên Thư sinh trong một gia đình bố mẹ làm nghề bốc thuốc nhưng thích thơ văn. Tuổi thơ của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho ông được những tiền đề thuận lợi, nhưng để một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm 1958, sau một biến động của cuộc đời... Chuyện là ông có nhóm bạn thơ họa Hồ Quý Ly, tụ tập đàn đúm thơ phú đêm ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ “ương ương dở dở”, cảnh sát chế độ Sài Gòn cũ đã vây bắt. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng... Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo: Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi... Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam...Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ...
Giữa mộng và thực có khi chỉ cách nhau một vài "séc na". Một Phạm thiên Thu trong văn học tuyệt vời và một Phạm thiên thư ngoài đời tầm thường...PTT sau 1975!
Điều nầy chứng tỏ bài thơ Tuổi hoàng Hôn của KV cũng tuyệt diệu!
Cám ơn huynh PC với những bài thơ của PTT. Hồi nhỏ KV rất thích bài hát Ngày xưa Hoàng Thị . Thơ của PTT thật tuyệt vời. Cáng đọc sẽ thấy được sự tuyệt diệu trong thơ PTT. Với KV thì chưa dám nhận hai chữ này huynh PC nghe! Nói về tranh trong thơ mà QH đề cập , KV chợt nhớ đến bài thơ TÌM VỀ mà Vân đã làm cách dây hai năm. Một nơi chốn an bình, thanh tịnh mà Vân hằng ước mong những ngày cuối đời mình được ở một chỗ như thế . Bài thơ này có thể Vân đã gửi cho các bạn thơ đọc rồi . Bây giờ đọc lại nghe TÌM VỀ
Chuông chùa vang vọng xa xa. Núi non bàng bạc , mây là đà bay. Ánh dương tỏa xuống ngàn cây Làn hơi sương nhẹ, lung lay sắc hồng Chiếc cầu vòng nguyệt cong cong Đưa ta đến chốn hư không, niết bàn Lòng ta tìm cõi tịnh an. Ngẩng cao trời rộng, muôn ngàn áng mây Nhìn xuống đất thấp, là đây. Vực sâu thăm thẳm , người say bụi trần, Mái chùa trên đỉnh phù vân Tiếng chuông thánh thót , lâng lâng tâm hồn. Nhìn quanh trong cõi càn khôn Nhịp chân ta bước dập dồn đắng cay. Thế nên phủi sạch hai tay Vứt danh , bỏ lợi ta quay tìm về. Bồng lai ,vượt cả sơn khê. Cách xa thế tục , bờ mê , thoát trần Khánh Vân – Mây Lành (Jan 28 /09)
NT cám ơn bạn thơ Phượng Các đã cho NT đọc lại thơ của Phạm Thiên Thư Vẫn còn mê thơ ông ấy ! Đọc thơ PTT thấy mình lửng lơ giữa cổng chùa và cửa trần gian . Trần gian thì chộn rộn quá, cổng chùa thì tĩnh lặng quá - cái hay của nhà thơ là đứng ngoài hai vị trí ấy để nhìn cả hai - không biết NT nghĩ vậy có đúng không ?
Khi đọc một bài thơ được cho là hay, người đọc sẽ đắm chìm vào trong đó bằng tâm cảm của riêng mình và có thể mỗi người mỗi khác.
Khi ta đọc được một bài thơ vừa ý và được cho là hay bởi có khi thi sĩ nói hộ lòng mình, và chúng ta thưởng thức một nét đẹp của tâm hồn, sự tài hoa của trí tuệ. Thậm chí đôi lúc chuyển thành sự khâm phục. Nhưng đó thuần là sự khâm phục tâm hồn và trí tuệ người đã viết ra những câu thơ mượt mà đó chớ nào phải là khâm phục con người trần gian?
Tôi xin nêu ra đây một ví dụ: Khi viết được một bài thơ gọi là Thơ Tình thì trong suy tưởng của người viết phải có một đối tượng để mình thủ thỉ. Đối tượng đó có thể là thực mà cũng có thể là một nhân vật tưởng tượng.
Giả định như đó là một nhân vật tưởng tượng là Nàng Thơ đang bay lượn quanh đây. Bao nhiêu ngôn từ trau chuốt, bao nhiêu lời hay ý đẹp, những nhung nhớ đều dành hết cho Nàng để kết thành một bài thơ tuyệt diệu. Nhưng nếu tôi “trần gian” một chút, cứ tưởng tượng thêm là suối tóc mây óng ả ủ kín hồn mình để dậy hương tình ái mà một tuần lễ nàng không gội thì sao đây nhỉ?
Chính bởi thế nên nếu đối tượng là một nhân vật có thực lại rơi vào hoàn cảnh ấy thì sao đây?
Cho nên, con người trần gian là một vế khác, không thể để nó nhập chung vào cõi thơ (chữ mọi người hay dùng)
Có ai tài giỏi để có thể chụp lại được những xúc cảm và tâm hồn một con người qua một bức ảnh không? Chắc đó chỉ là điều không tưởng. Cho nên Thơ là thơ, còn Người là người. Đừng đem cái diện mạo trần tục của một người so sánh với thơ mà làm giảm giá trị tinh thần của nó.
Lại nữa, chúng ta cũng thừa hiểu: Những cảm xúc của thời tuổi trẻ phải khác xa với khi đà luống tuổi. Đố Ông Phạm Thiên Thư đang ở tuổi cổ lai hy có thể viết được những câu thơ mượt mà tương tự như bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thuở thanh xuân.
Hầu như ai trong độ tuổi chúng ta, có thể sớm hơn hay muộn hơn một chút đều biết đến Phạm Thiên Thư khởi nguyên từ bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị do Phạm Duy phổ nhạc.
Hai cái tài gặp nhau đã để lại một tác phẩm để đời.
Xin biếu các bạn sính thơ Phạm Thiên Thư link dẫn dưới đây để lưu vào Favorites để khi cần cứ click chuột một cái thì sẽ có ngay trước mắt cái mình cần, khỏi phải lục lạo chi cho mất công. Thơ Phạm Thiên Thư
Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na. (Tham khảo: http://www.quangduc.com/coban/20cdhp04.html) "sát na" là phiên âm tiếng Phạn (sanskit) chứ không phải chữ riêng nhà Phật.
Khi bài thơ của Khánh Vân vừa post lên Trang Thơ, chỉ đọc qua hai lần là tôi “cảm” ngay.
Thứ nhứt là tựa đề: Tuổi HOÀNG HÔN. Một cái tên lạ bởi phần đông mọi người hay gọi lứa tuổi trên 50 là tuổi xế chiều. Gọi chi cái tên mà nghe buồn bã vậy? Hoàng Hôn nghe hay hơn và đậm chất thơ hơn. Đành rằng cũng là một sự kiện, nhưng mỗi người có cách đặt tên khác nhau. Cứ cho rằng ta đang dùng một trạng thái của thiên nhiên để áp vào một sự việc khác mà ta muốn mô tả theo ngôn ngữ thơ. Thường thì ai cũng cho rằng hoàng hôn là sắp kết thúc sau một ngày dài sống động, và chừng như lúc ấy mọi việc đang chìm lắng xuống như là một cách buông tay ngơi nghỉ.
Nương theo đó, tôi xin mở rộng suy nghĩ của mình thêm một chút. Hoàng hôn đâu chỉ để nói đến một ngày tàn? Nó còn có màu mây tía lãng đãng trên sắc trời chiều xui người ta mơ màng về một điều tuyệt diệu nào đó. Những đám mây trắng nõn đủ hình thù lang thang bay ngang bầu trời dịu nắng giúp cho mấy đứa trẻ đang ngã lưng trên bờ cỏ, khoanh hai tay gối sau đầu tha hồ cho trí tưởng tượng phiêu bồng về những con thú, những nhân vật sẽ hiện lên bầu trời nhạt nắng rồi tranh nhau sở hữu chúng, đôi khi xảy ra những cuộc tranh cãi. Tuổi thơ tôi từng đã có những buổi chiều như thế! Chưa hẳn là chỉ một đoạn đời đầy ắp những suy nghĩ thơ ngây trong sáng đó đâu. Cũng có lúc tóc trên đầu đã bạc, tôi vẫn còn ngồi trên bờ biển Nha Trang nhìn những đám mây trắng tự đàng đông bay tới mà tưởng tượng vài điều. Chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng ta vẫn cảm thấy hạnh phúc nếu biết cách đón nhận chúng. Hoàng hôn đang đổ xuống với những tia nắng nhạt xuyên qua ráng chiều rơi xuống vai ta, ngồi với một vài người bạn trên chiếc đệm trải trên cỏ gần một bờ sông nhỏ, nhâm nhi vài ly rượu đế trong hơi gió nhẹ thổi hiu hiu thì quả là “tuyệt cú mèo”, nếu ta biết thưởng thức cuộc sống. Hoàng hôn với những làn khói lam uốn éo bay lên từ những nếp nhà tranh của bữa cơm chiều dấy lên trong ta sự ấm cúng của buổi sum họp gia đình sau một ngày làm việc vất vả, ta không thấy tuyệt vời sao?
Với riêng tôi, sau hoàng hôn là màn đêm bắt đầu rón rén từng bước nhẹ về. Trong bóng đêm càng lúc càng đậm màu trong hơi sương, đó là lúc tuyệt vời nhất cho những hẹn hò đôi lứa, cho những người có chút tâm hồn lãng mạn dễ viết lên những lời thơ tha thiết nồng nàn.
Bóng đêm sẽ xóa nhòa những góc cạnh của cuộc sống để chỉ còn lại trong ta những cảm xúc trong veo. Những tình tự sẽ theo gót đêm quay về với ngập tràn nhung nhớ. Đêm cô quạnh sẽ làm ta cảm thấy lẻ loi, nhưng có ai biết đâu ta hạnh phúc trong cõi vắng riêng mình?
Rồi cũng có một đêm nào đó, ánh trăng sẽ soi sáng cảnh vật quanh ta, soi sáng cả những tình cảm hiện có trong lòng. Dưới ánh trăng, mọi vật sẽ hiện lên trong vẻ mơ màng, tình cảm trong lòng sẽ được nhân lên gấp bội bởi khung cảnh quanh ta. Bóng lá sẽ che khuất những góc cạnh, những gai nhọn xù xì mà dâng cho ta vẻ đẹp của những đóa hoa tỏa hương thơm ngát nở vội thấm đẫm những giọt sương đêm trong vườn khuya.
Đêm là của những hạnh ngộ lứa đôi. Đêm là của những lời tình tự. Đêm là của những vòng tay, những môi hôn cuống quýt. Đêm là của những buông tay gọi mời cảm xúc dâng tràn. Hương đêm sẽ làm hương Tình yêu nồng nàn sâu thẳm hơn.
Sao mà bạn thơ KHÁNH VÂN chọn được một chữ hay đến vậy? Tưởng như thu nhỏ gọn gàng lại để dễ dàng che dấu những xúc động riêng mình để chỉ mình ta biết ta mà thôi. Những hoài niệm, những hạnh phúc, những đớn đau nào đó ta đã trải qua giờ chỉ còn lại là nỗi nhớ!
Theo ý riêng tôi, một bài thơ hay là nhờ ở cái ý. Đó như cái sườn nhà để những ngôn ngữ thơ ca sẽ lợp mái lên đó. Nếu là những ngôn từ mộc mạc ta sẽ có một mái nhà tranh thơ mộng. Nếu là những từ ngữ đẫm chất Thiền, chất Đạo thì đó sẽ là chỗ thanh tịnh với khói hương bay. Nếu là những từ ngữ trau chuốt, đó sẽ thành một đền vàng lộng lẫy.
Tôi lại có chút mù quáng khi cảm nhận cái đẹp. Thốt nhiên nhìn thấy một đóa hoa đẹp, một người phụ nữ, một ánh hoàng hôn, một tiếng chim, một sắc mây...nếu đúng ý mình thì thích ngay. Không săm soi để coi nó đẹp chỗ nào để mình khả dĩ đặt lòng ưa thích vào nó, vì biết rằng mọi vật vốn bất toàn, có khi đôi điều không ưng ý sẽ làm suy giảm cảm xúc của mình thì thiệt là...uổng!
Tôi cũng thích chữ DUYÊN của nhà Phật. Thiệt sự tôi cũng không hiểu thấu đáo lắm đâu, chỉ biết cảm nhận theo suy nghĩ nông cạn của mình mà thôi. Ví như khi nghe một vị sư giảng kinh, đâu phải tất cả mọi người đều thấu triệt lẽ nhiệm mầu, chỉ những người có duyên mới ngộ được cái thâm sâu của giáo lý Đức Phật.
Giữa con người với nhau cũng vậy. Phải có cái duyên thì người ta mới gặp được nhau. Tôi luôn luôn tin ở sự mầu nhiệm đó và cho rằng tất cả đều được sắp đặt sẵn đâu đó ở trên cao.
Tôi lại tin chữ duyên ở một mặt khác. Khi con người gặp gỡ nhau rồi nảy sinh tình cảm, khởi đầu cũng gắn bó và hầu như đã thuộc về nhau theo các nghĩa, nhưng cớ sao lần hồi tình lại nhạt phai?
Có người thì cho rằng kẻ kia đã bội bạc rồi hậm hực bằng những câu nói hay thái độ không hay, nhưng riêng tôi lại nghĩ cái duyên giữa hai người đã hết thì họ rời xa cũng là lẽ đương nhiên. Có cố gắng níu kéo nhau cũng chỉ gặp những bẽ bàng làm mất đi vẻ đẹp của buổi ban đầu mà thôi! Cho nên trong những câu thơ tôi đề cập đến chữ bội bạc trong Tình yêu chỉ như nói dùm ai đó chớ riêng tôi thì không hề đau khổ bởi hiểu rõ căn nguyên của vấn đề. Đã hết duyên thì tình sẽ nhạt phai, có điều gì trường tồn mãi mãi đâu? Cớ sao ta phải bực tức?
Nếu bạn thơ Khánh Vân vui lòng biếu cho tôi câu thơ đầu, chắc tôi có thể sẽ làm được một bài thơ.
Dòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ Cuộn dùm em cả một mớ tơ lòng Giấu hộ em cho hết những nhớ mong Những say đắm tình đầu không trọn vẹn.
Ủ kín hương của những lời thề hẹn Hạnh phúc ơi! Sao nghèn nghẹn trong chiều Dòng sông xưa dung chứa biết bao điều Những hoài niệm, biết bao nhiêu mất mát!
Sông chứa cả chút hồn em tan nát Em xẩy tay rơi thơm ngát tình đầu Đến với em lộng lẫy những sắc màu Ngày tháng cũ sao nhìn đâu cũng thấy.
Nhớ thuở đó ta ngại ngùng biết mấy! Đất trời kia như cũng dậy hương yêu Ánh mắt anh muốn nói biết bao điều Ngồi bên nhau trong bóng chiều mờ mịt.
Giấu hộ em nụ hôn đầu cuống quít Anh dịu dàng run rẩy vít môi sen Em tưởng đâu đang ngây ngất hơi men Hương tình ái sao bỗng quen bỗng lạ!
Cám ơn bạn S@ với bài thơ "Giấu hộ em". Một bài thơ tình thật hay và rất lãng mạn Trong bài thơ TUỔI HOÀNG HÔN của Vân , thành thật mà nói KV không nhớ mối tình đầu, nếu có thì cũng nhẹ nhàng thôi, mặc dù mối tình đầu ai cũng có và cũng nhớ cả, nhưng nỗi nhớ trong Vân nhiều nhất mà Vân đề cập đến trong thơ chính là những thăng trầm , nghiệt ngã đắng cay mà Vân gặp phải từ khi từ giã tuổi thơ ngây để bước vào đời, nhất là khoảng thời gian 20 năm nơi xứ người.Có những lúc buồn đau , Vân thật sự nhớ cha mẹ , anh em và quê nhà, thèm khát được trở lại thời thơ ấu ghê lắm ! Nghĩ cho cùng , nỗi đau của mình so với những người khác hãy còn nhẹ mà! Quanh mình bao nhiêu người còn gặp phải những nghiệt ngã đắng cay hơn Riêng mối tình đầu của Vân thì thật sự nhẹ nhàng trong sáng chứ không đắm say, các bạn thơ ạ ! Chính vì vậy về thơ tình Vân nhận thấy mình làm không hay được . Thật sự là thế đó!
Tôi chỉ ngỏ ý xin câu thơ đầu để viết vài câu thơ theo ý riêng của mình chớ không có ý họa lại bài thơ của bạn nên ý của hai bài thơ khác nhau.
Lại xin phép “nhiều chiện” một chút về cụm từ “Mối Tình đầu”.
Hầu như ai cũng nghĩ rằng khi có nảy sinh tình cảm giữa nam nữ lần đầu tiên đã vội mặc áo tình nhân cho nó nên cho đó là Mối Tình đầu. Không đúng đâu! Theo tôi, khi đó chỉ mới...Hình như là Tình Yêu thôi! Thuở đó, các cô cậu ở tuổi mới lớn thì biết gì về Tình Yêu mà đã vội vàng mạo nhận như thế? Nó sắc màu ra sao? Nó đắm say cỡ nào? Nó đem lại hạnh phúc và đớn đau độ nào thì có mấy ai biết? Cứ có chút thoang thoảng nhớ nhung là đã gọi là Tình Yêu.
Dù đã trải qua dăm ba sự liên hệ tình cảm trên mức bình thường nhưng chưa hẳn đó đáng gọi là Tình Yêu. Thi sĩ tiền chiến há chẳng phải thốt lên “Làm sao định nghĩa được Tình yêu” đó sao?
Tôi cũng có câu trả lời riêng của mình về mệnh đề đó, nhưng vô phép giữ lấy cho mình vì chưa chắc đã đúng với nhiều người khác. Đắm say thôi chưa đủ để nói về nó mà phải có sự trân trọng tuyệt đối nữa.
Yêu theo cái kiểu “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” thì tiêu cực quá!
Một bài thơ thật tuyệt!
ReplyDeleteMột hơi thơ lạ trong dòng thơ của Khánh Vân.
Cám ơn Tác Giả Khánh Vân !
ReplyDeleteChỉ cần đọc hai câu đầu thì vivu đã trôi về cõi Thơ , tưởng chừng như đã xa - xa lắm ...
ý tại ngôn ngoại .
KhanhVan oi (xin loi ban cai may lam reo dau dau mat tieu)
ReplyDeleteBai tho KV nhu mot tieng tho dai
"mau di vang benh bong noi cuoi neo"
Dung la ai cung co mot thoi thanh xuan day tiec nuoi uoc mo
"doi yeu thuong con xanh muot tuoi tho",cai tuoi tuong chung nhu lat ca the gioi,doi da va troi,nhung rieng Thth thi thay tuoi hoang hon co nhung cai can phai lam qua,cac ban sao chu ThTh ngay di lam 9,10 tieng,phai di exercise(bac si dan)roi cho bua nau nuong..cung ban ron het ca ngay,lam khi uoc ao them "gio thu 25 "nao do de duoc nghi ngoi them...
Vay do KV,chia xe voi KV nhe.Than tinh
Xin mạn phép mượn sân Trang Thơ gởi đến các bạn thơ một bài viết mà tôi cho là khá thú vị bởi mấy mươi năm qua vẫn không biết xuất xứ của từ NẪU dùng để nói tới người xứ Bình Định.
ReplyDeleteCũng có thể đã có người biết, nhưng theo thiển ý của tôi thì chắc là đa phần không rõ nguồn gốc.
Đây là một bài viết theo quan điểm chủ quan có khi không đúng hoàn toàn với sự thật, tuy nhiên nó chỉ mang tính cách là một tài liệu sơ khai để mở rộng sự hiểu biết, không hề có ý thiên vị, dèm pha nào ở đây.
Xin mời các bạn đọc qua để tìm hiểu thêm.
NGƯỜI XỨ BÌNH ĐỊNH - TẠI SAO ĐƯỢC GỌI LÀ DÂN "NẪU"?
ReplyDeleteNăm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú Yên bây giờ).
Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.
Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man.
Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu.
Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm...
Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ.
ReplyDeleteKhái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.
Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:
Ví dụ:
-Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm.
- Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.
- Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.
Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.
Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”.
Và thế là “Nậu” được thay bằng "Nẩu".
Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất:
Ai về sông núi Phú Yên
Cho nẫu nhắn gởi nỗi niềm nhớ quê.
Trước khi đề cập đến ý nghĩa bài thơ cao siêu đến bực nào thì PC xin nói về bức hình minh họa của trang chủ. Thật là công phu suy nghĩ và tạo ra được bức hình nầy, vì đọc qua bài thơ từng câu, từng câu, chúng ta khó mà hình dung ra một hình tượng rõ ràng để chọn hình. Nầy nha các bạn thử đọc từng câu:
ReplyDeleteDòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ,
Đố ai vẽ được hình trong nỗi nhớ !
Sóng thời gian làm cay mắt người xưa
Theo kịp sóng thời gian cũng là chuyện ..."vi ba"
Và từng câu, từng câu tiếp theo các bạn sẽ lùng bùng trí não ngay! Nhưng toàn bài thơ toát lên được nỗi buồn tuổi xế chiều của một tâm hồn nhiều trắc ẫn, lắm "bụi muộn phiền". Vậy mà trang chủ đã tạo được bức hình, nhìn vào từng góc cạnh chúng ta sẽ nhận ra từng ý của bài thơ, và cuối cùng nhìn tổng thể là một bức tranh chiều buồn man mác.
PC phục nhất là tạo được "bụi thời gian" rơi trong khung trời chiều !
Làm bức hình nầy theo PC thì trang chủ phải mất ít nhất là 3 giờ "brainstorm" cao độ! (thế mới hiễu vì sao đau đầu triền miên)
Cả hai, bài thơ và bức hình minh hoa, thật là tuyệt kỷ ! thán phục!
Cám ơn những say mê của nghệ nhân mà chúng ta có được những tác phẩm tuyệt vời!
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”.
ReplyDeleteVà đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi.
Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”.
Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”.
Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là "đại từ nhân xưng" nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều.
ReplyDeleteVí dụ thay vì hỏi "Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy?" thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là "Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy?" hay "Cái nhà này là của họ" thì dân Nẫu sẽ nói là "Cái nhà nhà này là của nẫu".
Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói "Vào tận trong đó" thì nói là "Dô tuốt trỏng" hay hỏi "vậy hả?" thì hỏi là "dẫy na?", "dẫy ngheng" (vậy nghen hay thế nhé), "dẫy á" (vậy đó), "chu cha wơi" (trời đất ơi) v.v...
Một nguồn tài liệu khác.
ReplyDelete....Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị thì vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác.
Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”.
Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi...
Vì sao "quê", vì ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không còn ai dùng. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: "Nậu nguồn" chỉ nhóm người trên rừng, "Nậu nại" chỉ nhóm người làm muối, "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá, "Nậu rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, "Nậu cấy" chỉ nhóm người đi cấy mướn, "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm... mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, thì cái “nậu + ấy= Nẫu”.
Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa.
ReplyDeleteCũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn...khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác.
Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:
Thương chi cho uổng công tình
Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ.
Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì:
ReplyDelete“nẫu cừ thì kệ nẫu cừ,
nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng”.
Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch...
Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình.
Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc.
Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế.
Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam.
Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy),
Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”.
Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn..................
Trong những bài thơ của Khánh Vân mà VK có dịp được đọc trên Trang Thơ này, có lẽ bài thơ Tuổi HOÀNG HÔN của KV hôm nay, mang tâm sự u hoài của Tác giả nhiều hơn hết. Những lời khen tặng của các bạn Thơ dành cho KV và Trang chủ về bức minh họa quả không ngoa chút nào . VK thấy không còn viết gì thêm nữa. Chỉ biết "NGẬM NGÙI" cho những ai khi đến Tuổi VỀ CHIỀU như VK .
ReplyDeleteChúc mọi người vui vào cuối tuần .
KV có nói là bài thơ mới làm không được vui, thì Tuổi Hoàng hôn đúng như vậy mà. Nhiều lúc SM nhớ rõ và đầy ắp những kỷ niệm thiệt xa xưa, nhưng hỡi ôi có bao nhiêu lần vừa từ trên phòng bước xuống nhà dưới định lấy cái gì đó rồi nghĩ mãi chẳng ra, quên mất tiêu một hồi mới nhớ. Có ai đồng bệnh quên trước quên sau như thế này không? Tuổi Hoàng hôn là tuổi sắp già, hay xế bóng hay đã già.., sao SM thấy trong Trang thơ mình tâm hồn ai cũng còn trẻ quá,tiếng cười đùa vui giòn tan, rất giỏi thích nghi với hoàn cảnh của riêng mình.Thời gian vô tư chạy qua vù vù, không chừa ai hết, mình già nhưng còn có người già hơn mình mà phải không các bạn ?
ReplyDeletethân chào các bạn thơ
ReplyDeleteKhánh Vân cám ơn những lời khen của các bạn . Thật ra , khi trang trải nỗi niềm của mình, KV nghĩ sao viết vậy, không ngờ lại được các bạn thơ yêu thích. Đúng như huynh PC phân tích, bức hình minh họa của SM thật tuyệt vời,
lột hết được cái sâu lắng bên trong nội tâm của tác giả. Khánh Vân cám ơn SM thật nhiều nghen !
Thiên Thanh ơi !Nghe Th. Th thật bận rộn và thèm có giờ thứ 25 nữa chứ . Chứng tỏ Th.Th còn khoẻ và
còn lạc quan yêu đời lắm đó . Điều này thật đáng mừng , đúng không Th. Th ?
Thân chào bạn S@! Thơ của S@ và NT lâu nay KV rất thích, nay thơ của Vân được S@ khen là KV biết mình có nhiều tiến bộ rồi đó.
Huynh VIVu và huynh VK ơi ! Tuổi xế chiều thường có nhiều phiền phức xảy đến nhất là sức khoẻ. Vân có hai anh trai còn ở VN, tình hình sức khoẻ của hai anh ấy dạo này cũng tệ rồi. Mỗi lần phone về nghe hai anh than thở thấy mà thương. Sau đó mấy anh em lại nhắc lại thuở ấu thơ nghe thấy vui rồi thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất , một lúc nào đó " ánh chiều buông lịm tắt " sẽ đến với người thân , với chính ta. Thật lòng không vui gì khi nghĩ đến điều này
KV thân chúc các bạn thơ luôn vui khoẻ và vạn điều an lành
KV
Thiệt ra SM cũng không biết nhiều về từ địa phương "NẪU" của vùng Bình Định, Phú Yên, nay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu " Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ" nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy. Nếu nói về " Người xứ Nẫu", thế thì có đúng không khi chữ ấy vì là "đại từ nhân xưng" nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều ? Ngôn ngữ địa phương nào cũng gắn chặt với tình yêu thương đất nước con người nơi đó, chất giọng của từng xứ sở thì SM thấy khác nhau rất nhiều, dân BMT là nghe và hiểu được nhiều ngôn ngữ so với những tỉnh lỵ khác, có lẽ nhờ người dân tứ xứ về sinh sống càng ngày càng đông, tạo thành một xã hội với nền văn hóa đa dạng cho vùng trù phú cao nguyên.
ReplyDeletethân chào các bạn thơ
ReplyDeleteHẳn NT cũng đồng ý khi suy nghĩ làm một bài thơ mà mình chỉ hiểu một chiều nào đó cho riêng mình, còn người khác đọc bài thơ có khi lại hiểu theo một chiều hướng khác mà chính tác giả cũng ngạc nhiên không ngờ. Hôm nay trường hợp SM cũng vậy, đọc bài thơ man mác buồn của Tuổi Hoàng hôn, dòng thơ mang ý lạ khác với thường ngày của KV, SM đọc đi đọc lại vài lần, sao cho hòa mình với những tâm tư chia sẻ, rồi tính tới chuyện của mình với những hình ảnh cần thiết phối hợp khi minh họa một bài thơ. Tiếc là kho hình riêng của SM không đủ để đáp ứng nên dành thêm thời gian mà search trên mạng cho tới khi chọn được hình ưng ý. Cám ơn PC đã khen tặng nhưng làm ơn cất đi dùm chữ " tuyệt kỷ" nhé,thấy nhận xét về tấm hình mà SM đây cũng giật mình luôn vì đâu có "tạo" được bụi thời gian mà chỉ chọn lựa và cảm nhận được đây là cảnh sắc tương đối phù hợp với ý thơ buồn tuổi xế chiều,khi ánh nắng tàn đang dần buông lịm tắt.
ReplyDeletenay bạn Sao nhắc lại chợt mỉm cười vì cái câu
ReplyDelete" Nẫu về xứ Nẫu bỏ mình bơ vơ"
nó nằm trong tiềm thức SM rất lâu rồi, chẳng biết ngọn ngành phát xuất từ đâu, cứ hễ nghe ai nói đụng đến chữ này là liền gợi nhớ đến câu than thở ấy.
Gì mà không biết? Cứ lục lại ngăn tủ kỷ niệm từ thuở tuổi bình minh là thấy liền chớ khó gì?
Có bao giờ Bạn say ? Cái lâng lâng nhè nhẹ kéo dài ...
ReplyDeleteHơi Thơ của "Tuổi Hoàng Hôn" và hình minh họa công phu - sự chọn lựa của màu sắc ở một "sát na của trực giác " đậm hay nhạt hơn một chút cũng không được ,một cái click của con chuột có giá trị như một tiếng búa của quan tòa ! Xong !
Là thế đấy !
Tự nhiên một bài sưu khảo về chữ "Nẫu" lạc loài - làm mất hứng !!!!!!
Giận thì giận mà thương thì thương !
Vivu nghĩ sao nóoi vậy !!!@
Huynh Vi Vu và huynh VK thân !
ReplyDeleteTuổi xế chiều lắm điều rắc rối , nhất là sức khoẻ. Vân bây giờ cũng giống như SM vậy , hay quên lắm. Biết tuổi già đang dần đến. Nhìn các anh trai của Vân sức khoẻ đang giảm dần Vân thấy thật thương. Mỗi lần phone về VN nói chuyện với các anh , nghe các anh than thở Vân thấy lòng thật xót xa. Anh em nhắc nhau những kỷ niệm hồi còn bé , nghe thật vui thoáng chốc lại buồn" Màu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo . Đồi yêu thương còn xanh mướt tuổi thơ " là thế ! Theo sự luân hồi của trời đất, một lúc nào đó "ánh chiều buông lịm tắt". Điều đó xảy đến thì thật không vui gì.
KV luôn mong chúng ta mãi mãi vui khỏe và an lành
SM ơi!
ReplyDeleteTối nay Vân loay hoay với những comments, viết rồi , gửi đi nó chẳng chịu vào, đến khi viết lại cái mới , cái cũ lại hiện ra làm Vân cười vui !Nói đi nói lại hoài nghe không buồn cười sao được ??
Cám ơn bạn S@ với tài liệu về từ "Nẫu "Lâu nay Vân nghĩ đó là từ dùng cho những người miền Trung mình, ám chỉ về những người keo kiệt bủn xỉn. Dẫu sao biết thêm cũng là điều hữu ích, không sao cả huynh Vi Vu nghen !
Cám ơn bạn thơ Vivu đã có ý nhắc nhở.
ReplyDeleteThiệt ra tui không có khiếu bình thơ của người khác, đôi khi những câu chữ của mình viết ra trong một phút bất chợt hiện về trong đầu rồi sau đó đọc lại chưa chắc đã rõ tường tận.
Thì cũng muốn góp mặt cùng các bạn cho vui nên tình cờ lang thang trên mạng thấy một bài viết cũng hay hay nên post lên để cùng nhau tìm hiểu sự đời.
Ý chỉ thế thôi! Mong bạn miễn chấp!
Một bài thơ đã làm NT sững sờ khi mới đọc tựa đề " TUỔI HOÀNG HÔN " ! Bao nhiêu tuổi thì sẽ bắt đầu vào cái tuổi ấy bạn thơ Khánh Vân Mây Lành ơi ? Và rồi đến tuổi ấy dường như là chuỗi ngày sống lại với nhớ thương quá khứ
ReplyDeleteLạ thật, khi còn trẻ mình lại mong mình già (!), đến khi tuổi già đến thì lại ao ước mình về lại tuổi thanh xuân
Sương Mai à,
ReplyDeleteNghệ thuật đôi khi thành tuyệt phẩm mà tác giả không biết mình làm sao được như vậy ! Giá trị hay không là kết quả cuối cùng của những người thưởng lãm cho biết, còn cách làm thế nào thì ít ai làm lại được cho dù biết tác giả đã làm gì. PC đã làm việc và trao đổi với SM nhiều, nhưng ít khi khen như vậy (có khi còn chê nữa) nhưng trong tấm hình nầy SM đã chọn một hình rất thích hợp với bài thơ (việc nầy không dễ dàng đâu phải không ?) cho dù là...tình cờ.
Riêng bài thơ của KV thì PC khen là vì toàn bài thơ mỗi câu mang một sắc nét xem lẫn giữa cái thực và cái không thực trong từng câu, các bạn thử đọc lại lần nữa xem !
Cho dù KV không cố ý làm như thế mà nó xuất phát từ vô thức rồi viết ra, thế nên nó đồng nhất mang một ý đó là "cái chập chờn giũa thực và ảo" hay nói khác hơn là CÓ VÀ KHÔNG ! (các bạn lại mĩm cười PC rồi chứ gì?)
Thỉnh thoảng PC cũng bắt gặp những vần thơ như thế rải rác ttrong vườn thơ VN chúng ta, đôi khi người đọc đọc xong thì không gây một ấn tượng gì trong trí và không biết tác giả muốn nói gì !! Nhưng mà tác giả có muốn nói điều gì đâu?
Tuổi hoàng hôn nên cái gì cũng là thực và mộng hết phải không KV?
Đố ai vẽ được:
"Mầu dĩ vãng bềnh bồng nơi cuối nẻo"!
Thế mà 12 câu góp thành một bài thơ, đó là ký do PC khen tặng !
NT thích câu thơ này của bạn thơ Khánh Vân Mây Lành nhất :
ReplyDeleteTuổi hoàng hôn dấu buồn trong tiềm thức
Đến một ngày mà bóng ngã chiều tà rồi mà còn buồn thì quả là buồn thật, lại còn phải Dấu một nơi mà không ai thấy nữa " Tiềm thức " - thế thì chỉ có riêng mình ôm nỗi buồn mà thôi và nỗi buồn sẽ tha hồ trong cõi riêng tư ấy đến sầu ngập lòng !
Nhìn hình minh hoạ, NT đoán là Tuổi hoàng hôn sẽ ... vàng như thế ?!
Mai em vàng Tuổi Hoàng Hôn
Chẳng còn mây biếc ru hồn mộng mơ
Cách đây 50 năm ,khi còn là một cậu bé miền núi ,chỉ biết có núi rừng và những dòng suối róc rách …biết gì về sông ? biết gì về biển ?
ReplyDeleteCó một bài ca còn ấn tượng đến bây giờ …
“ Chiều rơi …bên giòng sông Cửu Long …nghe một cơn ước mơ …ới …chiều …”
Đi tìm một phân tích ư ?
Ở vào một thời điểm mà thiên hạ còn bàn cãi về “Nghệ thuật vị nghệ thuật ,hay là nghệ thuật vị nhân sinh ? ..”
40 năm sau , dong thuyền trên sông Hậu sông Tiền ,tìm được gì trên giòng sông cuồn cuộn chảy , nước đục phù sa …
Được Huynh PC nhắc nhở một không gian giữa Thực và Ảo ,giữa Có và Không …
EUREKA ! … là thế đấy !
Người đời thường nghĩ tới Vô Thường như là điều mất mát ,nhưng chính Vô Thường cũng là điều hạnh ngộ - như cô bé lý lắt nhà bên một hôm trở thành người yêu …tháng sáu !!!
Thơ - Tuổi Hoàng hôn – cũng đưa vivu về cõi ..mộng - giữa thị thành bát nháo hôm nay – tìm được một khoảng không gian …của một thủa chưa có ánh đèn neon …
Chào các bạn,
ReplyDeleteThường thì cứ sau một chuyến đi xa về, người luôn mệt mõi vì công việc và lu bu điều chỉnh thói quen thường ngày..hôm nay cũng là thông lệ đó.
Vào lại Trang Thơ, một lý thú tình cờ với bài thơ Tuổi Hoàng-hôn của Khánh Vân..là nhìn ra được sự "kết hợp tài tình giữa Thơ và Họa". Đọc bài thơ xong, đọc lại đôi lần...người đọc (QH) cãm nhận được một bức tranh được Khánh-Vân tổ vẻ, nắn nót như người họa sỹ tài danh, đã nói lên được cái tâm trạng rất là Hoàng-hôn.
Nằm bên cạnh. "Minh họa" của Trang Chủ làm bài bài thơ trở thành "TUYÊT PHẨM GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HỌA."
Mời các Bạn cùng đọc một nghiên cứu về đề tài này.
Thật ngưỡng mộ.
QH
SỰ KẾT HỢP, GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HOẠ
Trong quá trình phát triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ cũng có tác dụng biểu hiện như thơ ca. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu và khuyết điểm khác nhau, thơ mạnh về biểu hiện thế giới nội tâm, hoạ mạnh về tính hình ảnh. Từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa thơ và hoạ, sáng tạo ra loại thơ đề tranh (đề hoạ thi) để tăng cường ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của hai loại hình nghệ thuật này. Thơ đề tranh xuất hiện từ thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, ban đầu nó tồn tại dưới dạng thơ đề trên các tấm bình phong, thơ đề trên quạt. Dữu Tín (513 – 581) được xem là người tiên phong của loại thơ đề tranh với bài 25 bài Vịnh hoạ bình phong thi. Đến thời Đường, thơ ca và hội hoạ Trung Quốc phát triển cực thịnh, xuất hiện rất nhiều bài thơ bình phẩm, vịnh tán tranh. Chỉ có điều khi ấy người ta chưa đề thơ thẳng lên tranh, mà thơ và hoạ lúc này vẫn là hai tác phẩm tách biệt nhau về hình thức không gian. Theo như Thẩm Thúc Dương, thì Tào Hy thời Tam Quốc là người đầu tiên làm thơ đề tranh Thuỷ mặc trúc thụ thạch.
Thời Đường, tranh sơn thuỷ và tranh hoa điểu có bước phát triển đột biến. Theo Phó Toàn Tông và Trần Hoa Xương, sự phát triển của tranh sơn thuỷ là kết quả ảnh hưởng của thơ sơn thuỷ, còn sự phát triển của tranh hoa điểu là kết quả ảnh hưởng từ thơ vịnh vật. Tranh sơn thuỷ thời Đường sùng thượng loại thuỷ mặc (trước đó người Trung Quốc chuộng màu xanh lục), ưa phong cách phóng khoáng tự nhiên (trước đó người ta chuộng sự tỉ mỉ, đẹp đẽ) là do ảnh hưởng thẩm mỹ tự nhiên, chân tình thực cảm của thơ Đường. Còn tranh hoa điểu thời Đường không trọng không gian - thời gian vật lý mà trọng không gian - thời gian tâm lý, không trọng việc miêu tả toàn diện, mà trọng miêu tả bộ phận cũng là do ảnh hưởng của thơ Đường. Thậm chí, màu sắc, đường nét, bố cục kết cấu của tranh thời Đường cũng chịu ảnh hưởng từ thơ Đường.
Nói về tranh hoa điểu (hoa điểu hoạ), thì thi hào Vương Duy được xem là người có những đột phá lớn. Ông vẽ hoa không chú ý tới mùa tự nhiên của hoa, cho nên cứ vẽ chung đào - hạnh - phù dung - sen là những loài hoa khác mùa với nhau vào chung một bức; hay như tác phẩm Viên an ngoạ tuyết đồ vẽ chuối chung với tuyết. Đó chính là sự đột phá của Vương Duy về thời gian và không gian, bất chấp mùa màng và địa vực khác nhau, nhằm biểu hiện không gian – thời gian tâm lý chứ không phải không gian - thời gian vật lý tự nhiên, mục đích là tạo ra một ý nghĩa mới cho tác phẩm. Đây thực tế là sự thi hoá, văn học hoá hội hoạ, bởi vượt qua không gian thời gian vật lý là thủ pháp mà thơ ca đã sử dụng từ lâu. Các nhà thơ thường kết hợp những cảnh vật khác nhau về không gian và thời gian về một chỗ, chẳng hạn: “Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân” (Cây xuân nơi Vị Bắc, mây chiều ở Giang Đông).
...
...Màu sắc và đường nét là ngôn ngữ, chất liệu đặc trưng của hội hoạ, nhưng trong thơ Đường cũng có rất nhiều câu thơ hay là do kết hợp, so sánh các màu sắc và đường nét tạo nên.
ReplyDeleteVí dụ:
- Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên (Đỗ Phủ)
(Tản Đà dịch: Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc/ Một đàn cò trắng vút trời xanh)
- Giang bích điểu du bạch
Sơn thanh hoa dục nhiên (Đỗ Phủ)
(Sông biếc chim trắng lượn/ Núi xanh hoa đỏ khoe)
- Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên (Lý Bạch)
(Tương Như dịch: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước/ Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Thời Tống, tính thơ trong họa, tính họa trong thơ được nhiều người chú ý. Trong tác phẩm Tuế hàn đường thi thoại, Trương Giới đã bình luận hai câu thơ: “Tái vân đa đoạn tục, biên nhật thiểu quang huy” trong bài thứ 18 của chùm 20 bài thơ Tần Châu tạp thi của Đỗ Phủ là: “hai câu thơ đã vẽ nên phong cảnh biên tái” (thử lưỡng cú hoạ xuất biên tái phong cảnh dã). Ngoài ra, Dương Vạn Lý, Phạm Thành Đại sau đó cũng nói đến tính hoạ trong thơ. Nổi tiếng nhất là lời bình của Tô Đông Pha về Vương Duy (hiệu Ma Cật) – nhà thơ kiêm hoạ sĩ tài danh thời Thịnh Đường:
“Đọc thơ Ma Cật, thấy trong thơ có hoạ. Xem tranh Ma Cật, thấy trong tranh có thơ. Thơ rằng: Khe xanh đá trắng lộ, Ngọc xuyên lá đỏ thưa, đường non mưa chẳng đến, ướt áo màu xanh xưa”.
Tô Đông Pha nhìn thấy đặc điểm của hội hoạ trong thơ Vương Duy và nhìn thấy đặc điểm của thơ trong tranh Vương Duy. Đó chính là sự thâm nhập vào nhau giữa thi và hoạ như lời Tiền Chung Thư nói ở trên. Nói cách khác, đó là sự dung hợp giữa thơ và hoạ thơ trong họa, họa trong thơ hoặc: “thi hoạ nhất trí”, “thi hoạ nhất luật”, “thi họa hợp bích”.
Sau khi Tô Đông Pha mất khoảng năm thế kỷ, Đường Thuận Chi thời Minh đã giải thích quan niệm “thi trung hữu hoạ” khi bàn về tác phẩm Trường giang vạn lý đồ quyển của hoạ sĩ Chu Thần đồng thời với ông: “Thơ Thiếu Lăng (tức Đỗ Phủ) viết: Hoa Di sơn bất đoạn, Ngô Thục thuỷ thường thông (Hoa Di núi bất tận, Ngô Thục sông mênh mông). Chỉ hai câu mà tả được phong cảnh vạn dặm của dòng Trường giang. Thật đáng gọi là trong thơ có hoạ vậy”.
Từ thời Tống và Nguyên về sau, phong trào sùng thượng thơ và hoạ lên cao, nhiều nhà thơ kiêm hoạ sĩ, nhiều hoạ sĩ thư pháp kiêm nhà thơ, thơ đề hoạ phát triển mạnh mẽ, tạo thành tình hình: Thi – Thư - Hoạ tam hợp. Thời Tống, phong trào vẽ tranh thủy mặc “tứ quân tử”: Mai - Lan - Cúc - Trúc phát triển rất mạnh, theo như sách Tuyên Hoà hoạ phổ cho biết thì thời kỳ này có đến hơn một nửa số hoạ sĩ kiêm văn nhân. Tô Đông Pha là thi hào số một thời Tống, nhưng ông cũng là một hoạ sĩ chuyên vẽ trúc và mai thủy mặc, ông còn dùng tranh để “tải đạo” (chú ý đến tác dụng xã hội của hội hoạ) và thường ví mình với trúc (tượng trưng cho bậc quân tử thanh cao), quan niệm: “thi hoạ bản nhất luật” (thơ họa vốn như nhau). Số tranh Tô Đông Pha để lại không nhiều, nhưng quan niệm, chủ trương của ông về hội hoạ đương thời có ảnh hưởng rất lớn.
Trong quá trình sáng tạo, các thi nhân cũng như các họa gia đều muốn mở rộng phạm vi, biên độ của thơ và tranh, thậm chí cái này còn muốn thâm nhập, dung hợp cái kia. Như Tiền Chung Thư viết: “Tất cả nghệ thuật đều dùng chất liệu nào đó làm phương tiện thể hiện. Mà tính chất cố hữu của chất liệu, một mặt tiện lợi cho việc thể hiện, nhưng đồng thời mặt khác cũng phát sinh những trở ngại hạn chế việc thể hiện ấy. Vì thế các nhà nghệ thuật luôn luôn muốn tìm cách vượt qua những trở ngại hạn chế, không chịu sự trói buộc hoàn toàn vào chất liệu. Ví dụ như chất liệu của hội hoạ là màu sắc và đường nét có thể thể hiện những hình ảnh cụ thể, nhưng những hoạ sĩ lớn không chỉ dừng lại ở việc thể hiện những hình ảnh cụ thể như vậy, mà họ còn muốn “tả ý”; chất liệu của thơ và ngôn từ, dùng để trữ tình tả ý, nhưng những nhà thơ lớn không chỉ muốn dừng lại ở việc “ngôn chí”, mà họ còn muốn thơ phải có cả tác dụng miêu tả hình ảnh như hội hoạ để người đọc thưởng thức. Thơ và hoạ đều có ý đồ thâm nhập lẫn nhau” (Trung Quốc và hoạ Trung Quốc).
...
...Hội hoạ không những chỉ kết hợp với thơ ca, mà rất nhiều khi còn kết hợp với thư pháp, bởi thư pháp cũng là một loại nghệ thuật đặc biệt của người Trung Quốc. Chữ viết lúc này không chỉ là “cái vỏ của tư duy”, không chỉ có chức năng chuyển tải thông điệp bình thường, mà nó còn có chức năng thẩm mỹ tự thân. Cho nên thơ đề trên tranh cũng thường được viết bằng loại chữ nghệ thuật (tức thư pháp). Trong một tác phẩm hội hoạ có cả ba nghệ thuật: thơ ca, hội hoạ, thư pháp và chúng hoà quyện, bổ sung, thống nhất với nhau, chúng có tác dụng làm tăng ưu điểm đồng thời làm giảm khuyết điểm cho mỗi loại nghệ thuật. Hoạ sĩ đương đại Ngô Tác Nhân nói: “thơ cũng là hoạ, hoạ cũng là thư, ba thứ ấy đều có diện mạo riêng, mà cũng có những điểm tương ứng. Tuy chúng bổ sung cho nhau, nhưng mỗi thứ đều có một hình thức độc lập”. Tô Đông Pha bình luận tranh vẽ trúc của Văn Đồng là: “Thơ không thể nói hết thì thêm thư, thêm hoạ”, Dương Công Viễn thì nói: “Cảnh khó vẽ thì lấy thơ mà bổ khuyết, thơ không nói hết ý thì lấy hoạ mà bổ sung”, thi nhân Ngô Long Hàn lại nói: “Cảnh khó vẽ thì thêm thơ, lời khó diễn tả thì thêm hoạ”
ReplyDeleteNếu thơ kết hợp với một nội dung, một nghệ thuật nào khác sẽ tạo ra đặc tính tương ứng cho thơ. Ví dụ thơ thiên về những nội dung lịch sử thì có loại “thi sử”; còn thơ gắn với họa, giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét thì tạo thành loại “thi hoạ”. “Thi hoạ” chính là khái niệm do Thiệu Ung thời Bắc Tống sáng tạo ra, trong bài Thi hoạ ngâm, ông viết: “Hội hoạ sở trường tả vật, chuyển tải màu sắc. Màu sắc đạt đến mức điêu luyện thì hình ảnh của vạn vật tất sẽ hiện ra. Thi hoạ giỏi tả vật và cũng giỏi chuyển tải tình cảm. Tình cảm đi vào câu thơ hay thì tình của vạn vật sẽ hiện ra”. Quan niệm “tình cảnh kiêm dung” này còn được Tư Không Đồ thời Vãn Đường nói thêm trong thư gởi cho Cực Phố: “Dung Châu nói rằng; Cảnh của nhà thơ như ngọc Lam Điền toả sáng, chỉ có thể ngắm chứ không thể đặt trước mắt cho thấy được. Đó chính là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, khó có thể nói rõ được”. Tính hoạ trong thơ mà Tư Không Đồ nói, chính yếu là hình ở ngoài hình, cảnh ở ngoài cảnh, con người chỉ có thể cảm nhận nó bằng cách tưởng tượng chứ không thể ngắm nó rõ ràng như ngắm một bức tranh bằng thị giác.
Nhà thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn cố gắng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ nhằm tái hiện lại hình ảnh sự vật sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến cái thần, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh. Cho nên trong thơ luôn có hai phần: tình và cảnh, mà người ta thường dùng cảnh để ngụ tình. Bởi vậy kết cấu của một bài thơ bát cú thời Đường thường là phần trước tả cảnh, phần sau tả tình; trong đó phần tả cảnh rất giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét khiến người đọc như thấy trước mắt hiện lên một bức tranh sống động. Ví dụ bài Đăng cao quen thuộc của Đỗ Phủ:
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường giang cổn cổn lai
Vạn lý bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
(Nam Trân dịch: Gió gấp trời cao vượn nỉ non/ Bến trong cát trắng, lượn chim cồn/ Rào rào lá trút rừng cây thẳm/ Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn/ Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não/ Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn/ Gian nan khổ hận đầu thêm bạc/ Quặt quẹo đành kiêng chén giải buồn).
...
...Rõ ràng trong bài thơ trên bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh, còn bốn câu thơ sau chú ý biểu hiện tình cảm. Nhưng cũng có khi trong một bài tám câu thì có tới sáu câu tả cảnh, còn hai câu cuối tả tình, như kiệt tác Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:
ReplyDeleteTích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Tản Đà dịch: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu/ Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ/ Hạc vàng bay mất từ xưa/ Nghìn năm mây trắng bây giờ vẫn bay/ Hán Dương sông tạnh cây bầy/ Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non/ Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai).
Trong khi đó, ở thể tứ tuyệt, tình và cảnh thường hoà trộn vào nhau, ít khi tách biệt rõ như ở thể bát cú. Ví dụ bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu.
(Ngô Tất Tố dịch: Bạn từ lầu Hạc lên đường/ Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng/ Cánh buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).
Bài thơ tả cảnh tiễn đưa mà hiện lên như một bức tranh đầy hình ảnh: cố nhân, Hoàng Hạc lâu, yên hoa, cô phàm, bích không, trường giang.
Gợi hình, liên ảnh là đặc tính của thơ ca nói chung, chứ không riêng có ở thơ ca Trung Quốc. Ví dụ một bài haiku của Hài thánh Basho ở Nhật thế kỷ XVII (bản dịch của Nhật Chiêu):
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.
Hoặc một bài Sijo Ngưỡng đình đoản ca của nhà thơ Triều Tiên thế kỷ XVI là Song Sun:
Hoàng hôn chim về tổ
Trăng non mọc đằng đông
Trên chiếc cầu cô độc
Một thiền sư thong dong
Ngôi chùa nơi nào nhỉ?
Chỉ nghe vẳng tiếng chuông.
Hay bài bát cú Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan ở Việt Nam thế kỷ XIX:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Còn mảnh tình riêng ta với ta.
Chính tính chất giàu hình ảnh, đường nét đã khiến cho thơ ca gần với hội hoạ. Nhiều bài thơ đã được những hoạ sĩ sau này chuyển thể thành các bức tranh đặc sắc. Dù rằng hội hoạ khó thể hiện được “tiếng nước”, “tiếng chuông”, hay nỗi “nhớ nước”, “thương nhà” trong thơ, nhưng điều đó cũng chứng minh rằng ranh giới giữa thơ ca và hội hoạ chưa bị xoá nhoà. Hay nói cách khác, điều đó nói lên sự kỳ diệu của thơ ca.
...
...
ReplyDeleteTHƠ ĐỀ HOẠ Ở VIỆT NAM
Ở Nhật Bản trước thế kỷ XX, hội hoạ phát triển mạnh với những tên tuổi lẫy lừng. Ví dụ hoạ sĩ sơn thuỷ Sesshu Toyo (1420 – 1506) được xem là Leonardo da Vinci của Nhật Bản, rồi từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX là thời hoàng kim của tranh khắc gỗ với các hoạ gia nổi tiếng: Harunobu, Utamaro, Sharaku, Hokusai, Hiroshige. Ở Triều Tiên, thế kỷ XVIII – XIX cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của hội hoạ với nhiều tên tuổi vang dội như: Kim Hong Do, Kim Duk Sin, Yu Suk, Sin Yun Pok, Kim Jun Kun…
Tuy loại thơ đề hoạ ở Nhật Bản và Triều Tiên không phát triển mạnh mẽ bằng Trung Quốc, nhưng vượt hẳn so với Việt Nam. Bởi ở Việt Nam từ thế kỷ XIX về trước, thơ ca phát triển rất mạnh, nhưng riêng hội hoạ, thư pháp lại gần như không khởi sắc, dường như không có hoạ sĩ lớn nào mà chỉ có các “thợ vẽ” với loại tranh dân gian kiểu Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng… Do vậy loại thơ đề hoạ ở Việt Nam chỉ xuất hiện rải rác, chẳng hạn bài tứ tuyệt Đề Bá Nha cổ cầm đồ (Đề bức tranh Bá Nha gảy đàn cầm) của Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV:
Chung Kỳ bất tác chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn
(Nguyễn Khuê dịch: Vàng đúc Chung Kỳ có dễ sao/ Một mình dưới nguyệt gảy đàn dao/ Đêm thanh trời mát xanh như ngọc/ Lạnh lẽo chằm xa tiếng hạc nào).
Hay bài bát cú Đề tranh Tố nữ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
Sang thế kỷ XX, hội hoạ Việt Nam phát triển khá mạnh với nhiều tên tuổi lớn, nhưng lúc này thơ mới đã chiếm chỗ của thơ cũ, thơ mới và hoạ mới tồn tại theo khuynh hướng độc lập nên loại thơ đề hoạ ở Việt Nam cũng không có duyên phát triển. Những bài như chùm Đề bốn bức tranh (Cây thông, Diều hâu đậu đỉnh núi, Mai nở dưới trăng, Rặng liễu) của Trần Tuấn Khải đầu thế kỷ XX quả thực không nhiều. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bài tứ tuyệt Rặng liễu:
Nước nước non non khéo hữu tình,
Rèm thưa khép mở cánh ba sinh,
Đêm xuân trăng gió lòng tơ vướng,
Trong kiếp phồn hoa hỏi có mình?
Những viện dẫn trên đây cũng cho thấy, ở Việt Nam vắng bóng loại thơ của hoạ sĩ cũng như không thấy sự xuất hiện loại tranh của văn nhân, tuy nhiên thơ đề hoạ vẫn tồn tại dù khá hiếm hoi. Có thể nói hội hoạ ở Việt Nam trước thế kỷ XX không phát triển dẫn đến thơ đề hoạ ở ta cũng yếu, cho nên các nhà thơ Việt Nam đã phải đề thơ lên tranh của nước ngoài (Trung Quốc) như trường hợp của Nguyễn Trãi, Trần Tuấn Khải hoặc đề thơ lên tranh dân gian như trường hợp của Hồ Xuân Hương, Phạm Thái. Thậm chí chúng tôi còn cho rằng thực chất của những bài thơ vừa dẫn trên là loại thơ vịnh hoạ (thơ ở ngoài tranh), chứ không phải thơ đề hoạ (đề thơ trực tiếp lên tranh, thơ trở thành một bộ phận gắn liền với tranh).
Cũng do vậy, thơ đề hoạ (hay nói đúng hơn là thơ vịnh hoạ) ở Việt Nam thiên về biểu hiện tư tưởng tình cảm mà người sáng tác đã “mượn” bức tranh như một cái “cớ” để bộc lộ nỗi niềm của mình hơn là để “bổ khuyết” cho tranh.
* Chú thích:
- Những bài thơ, đoạn trích trong bài trên nếu không đề tên người dịch, đều do chúng tôi tạm dịch.
- Bức tranh minh hoạ trên đây là 山路松声图 (Sơn lộ tùng thanh đồ: Tiếng tùng trên đường non) của tài tử Đường Bá Hổ (1470 – 1524) thời Minh. Bốn câu thơ đề bên phải bức tranh là:
女几山前野路横
松声偏解合泉声
试从静里闲倾耳
便觉冲然道气生
Nữ Kỷ sơn tiền dã lộ hoành
Tùng thanh thiên giải hợp tuyền thanh
Thí tòng tĩnh lý nhàn khuynh nhĩ
Tiện giác xung nhiên đạo khí sinh.
ĐI BUÔN RƯỢU
ReplyDeleteCâu chuyện này đã được truyền tụng trong dân gian từ lâu...
Ngày xửa ngày xưa... xưa lắm!
Tại một làng nọ có cặp chiến hữu hoàn cảnh khá giống nhau. Cả hai đều ly nông từ lâu nhưng lại bất ly hương. Khốn nỗi ở cái xứ bước ra là ruộng bước vào là nương này mà không biết cày, biết cấy thì xóa đói cũng chẳng xong chứ nói gì giảm nghèo.
May mắn là cả hai đều có vợ đảm đang tần tảo. Nhưng bám gấu váy đàn bà mãi cũng nhục, sau nhiều độ nhậu lâm ly bi tráng nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu... lẫn nhau, cả hai mới phát hiện rằng đàn ông tay nào cũng nhậu cả nên quyết định đi buôn rượu.
Nghe chồng phân tích, một vốn bốn lời, thị trường rộng mở, gương mặt hai chàng đỏ gay múa tay múa chân minh chứng rõ rệt, hai cô vợ thấy cũng có lý nhưng cũng cố vặn vẹo:
- Lỡ ế thì sao?
- Không bao giờ! Vợ có thể ế chứ còn rượu thì không. Cùng lắm thì tụi anh sẽ ráng... uống hết!
Câu trả lời hoàn toàn thuyết phục. Dầu sao họ cũng uống, lỡ kẹt thì uống rượu nhà giá gốc lại khỏi phải lo ngộ độc.
Vốn là người chịu khó chịu thương, hai cô bàn với nhau cùng hợp tác nấu rượu cho chồng đi bán. Gia cảnh cũng chẳng khấm khá gì lại phải vay vốn để sản xuất nên cả hai rất tiết kiệm: gạo mua tận gốc, củi lửa tận dụng, hèm dùng nuôi heo... để giảm giá thành.
Hôm tiễn chồng lên ghe với chum rượu, bao gạo, bịch khô... và một đồng bạc tích cóp từ lâu, hai cô sụt sùi dặn dò ráng tằn tiện, luôn nhớ câu “tiểu phú do cần”...
Chiều xuống, giữa mênh mông sông nước, không ai dòm ngó, hai chàng bỗng cảm thấy buồn buồn ngưa ngứa. Nuốt ực một cái, chàng A bậm môi quẳng ra đồng bạc:
ReplyDelete- Bán tôi một lít!
B hí hửng đong và cả hai bắt đầu nhâm nhi... Vừa cạn lít đầu tiên, nhìn con cá khô mặn mới chỉ mất cái đầu, anh B tức tối móc đồng bạc ra dằn mạnh:
- Anh em mình dãi dầu mưa nắng để làm giàu mà họ trả công quá bèo. Lấy thêm lít nữa!
Lúc này đến phiên chàng A cặm cụi đong...
Chiếc ghe cứ thế xuôi dòng, đồng bạc chạy qua chạy lại, rượu cứ vơi dần...
Sau ba ngày mua bán lòng vòng, chum đã cạn queo. Hai chàng bèn múc nước sông đổ vào, quay ghe về bến.
Nhìn chồng hốc hác hẳn đi sau ba ngày buôn rượu báo cáo kết quả kinh doanh với đủ mọi lý do khách quan như trời mây, sông nước, tại chất lượng hàng... vô cùng thuyết phục, nhưng vẫn bán tin bán nghi, một nàng vốn hời hợt giở chum ra xem qua thấy vẫn còn đầy sóng sánh nên thông cảm bỏ qua. Cô kia đáo để hơn, chấm ngón tay vào nếm thử, biết ngay sự việc. Nhưng xấu chàng cũng hổ thiếp, nên đành ngậm tăm, chờ đến khuya mới lôi nhau ra xử lý nội bộ!
Được vài ngày, hai chàng lại ỉ ôi hứa hẹn sẽ rút kinh nghiệm, vừa học vừa làm... Lỡ phóng phải theo, hai cô vợ lại tiếp tục vay vốn, còng lưng nấu rượu cho chồng đi buôn cho đến khi lụn bại!
Khoái quá ! Khoái quá !
ReplyDeleteMỗi lần “ôn thần miệt dưới “ bước vào Trang Thơ thì đã say bí tỉ !!! Tuổi Hoàng Hôn hay Tuổi Hạc gì thì cũng trôi qua như mây trời lãng đãng …còn lại Tuổi Thơ ..ngây cụ …
Đọc bài Thi và Họa của học giả QH và Đi buôn rượu của anh Sao mà …ước gì có ngày gặp gỡ cụng ly “dạ quang bôi “ (cứ cái gì làm bằng thủy tinh trong suốt mà đựng được rượu – thì gọi là dạ quang bôi - phải vậy không ? )
“Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá !
Rồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ?
Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ??
(Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)
….
Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau ,
Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …” -Quá đã !!!
cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được !
….
Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
Và anh S@ ơi ! Theo nghiên cứu thì tiếng Việt ta có “Sao Tua chín cái ối a nằm kề …”
vậy mà ở bên Nhật đếm được có sáu cái - Tua rua - tiếng Nhật là Subaru …
“Thi và Họa” - trong Trang Thơ mình thì Thi đi trước rồi Họa theo sau ! – Đó là một thử thách lớn lao cho người minh họa , ý có rồi ,mà phải làm sao cho hòa hợp - chao ôi , khó quá !
ReplyDeleteRồi còn trường hợp Tranh có trước rồi Thơ đi sau – thì sao ?
Hay là Trang Thơ mình post một tấm hình lên trước ,rồi phe ta đưa Thơ lên sau ??
(Có lẽ quá dễ với Nàng Thơ NT và người đổ bánh xèo - à nghen …)
….
Trong Lịch sử :Có khi Tranh có trước rồi Thơ có sau ,
Bà Huyện Thanh Quan đến Đèo Ngang ,rồi làm Thơ ! có một ông vua đến Ngũ Hành Sơn rồi cũng làm Thơ …”Quá đã “
cũng có một ông vua đến Vạn Lý Trường Thành rồi phán cái câu gì …Hảo Hớn …ngửi không được !
….
Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
Dể gì mà "Ông Trời con, hạ cố Trang Thơ mấy lần trong một bài thơ, mà còn chất vấn, y chang như là ...Quốc hội" ...
Cho nên "nhứt định" phải , đáp, giải đàng hoàng chứ không ấm ớ hội tề được...mấy khi mà " Ông Trời...con" hạ cố chứ phải không các Bạn.
Bài thơ của Bà Huyện thì không có tranh minh họa, mà Bà thì không vẻ tranh rồi đề thơ lên trên đó như mấy ông ba tàu, thành ra thơ của Bà là "THƠ LÀ TRANH" chứ không là "THI HỌA".
Chúa Nguyễn Phúc Chu đến Ngũ-Hành-Sơn và làm bài vịnh Tam Thai thính triều đi vào lịch sử. mà "Ông Trời con" cho quá đã,
chứ còn bài Vịnh Ngũ Hành Sơn của nữ sĩ Bang-Nhãn..thì sao? Bài thơ cũng như tranh của Bà..hỏng quá đã sao?
Vịnh Ngũ Hành Sơn
Cảnh trí nào hơn cảnh trí này,
Bồng Lai tiên cảnh hẳn là đây.
Núi chen sắc đá pha màu gấm,
Chùa nức hơi hương khói lộn mây.
Ngư phủ gác cần ngơi mặt nước,
Tiều phu chống búa tựa lưng cây.
Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách,
Vút mắt Trường Sơn ác xế tây.
Bà Bang -Nhãn Đầu thế kỷ XIX những bài thơ Nôm mang âm điệu hoài cổ như Thăng Long thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà... đã khiến cho bà huyện Thanh Quan trở thành một nữ sĩ danh tiếng thì cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của những bài thơ "Qua cửa Hàn", "Vịnh Ngũ Hành Sơn" đã đưa bà Bang Nhãn bước lên một vị trí xứng đáng trên văn đàn.
Bang Nhãn là gọi theo tên chồng, bà tên là Lê Thị Liễu (1853-1927), quê làng Phụng Trì, nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi bà cất tiếng khóc chào đời vừa mới 5 năm thì thực dân Pháp đã nổ súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng đất nước ta, từ đó cho đến suốt cuộc đời bà phải sống trong cảnh nước nhà bị chìm đắm trong nô lệ.
Chồng bà là ông Phan Quỳ, một người nổi tiếng hay chữ ở đất Quảng Nam, quê làng Gia Cốc, nay thuộc xã Đại Minh cùng huyện với bà. Ông Quỳ làm chức Bang tá, con đầu đặt tên Nhãn. Ngày trước, người ta thường lấy tên con đầu để gọi cha mẹ nên ông Quỳ được gọi là ông Bang Nhãn.
Vạn Lý Trường Thành...BẤT ĐÁO TRƯỜNG THÀNH PHI HẢO HÁN câu này thì thiệt là quá "lố bịch"...như Tàu. Hưng-Đạo Đai Vương Trần-Quốc-Tuấn đâu có .."đáo trường thành.."
Rồi còn Thơ và Nhạc ? Có nhiều bài Thơ đã được phổ Nhạc - thì sao đây ? Tam ca QH ?
...Câu hỏi này làm cho QH, sáng nay "bỏ chuyện hổn độn nhân gian" mà tới luôn với "THƠ NHẠC' hay là "NHẠC THƠ"..
ReplyDeleteThường thì ta thấy nhiều người viết Nhạc là người làm Thơ, sau đó nhà thơ mời một nhạc sĩ
phối âm.
Đôi khi ta thấy người làm thơ, chỉ làm thơ thôi...và người nhạc sĩ vì yêu bài thơ đó..mà phổ nhạc rất phổ biến.
Có một số ít Nhà thơ, là ngườ vẻ tranh (họa sỹ) và kiêm luôn người viết nhạc.
Bửa nay mình nói chuyện là một "nhà tu", trước tăng, sau cư sĩ, làm thơ như vẽ tranh và được người làm nhạc phổ thành những ca khúc bất tử...Thầy tu Phạm Thiên Thư.
Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long (1 tháng 1 năm 1940- ). Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức thâm thúy về đạo Phật. Ông được coi là "người thi hóa kinh Phật" (dịch kinh Phật ra thơ) và là tác giả của nhiều bài thơ phảng phất triết lý mà ông đã tin theo. Nhiều thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, và trở nên phổ biến trong công chúng, có thể kể đến Ngày xưa Hoàng Thị, các bài Đạo ca...
Mời đọc bài nghiên cứu của Thái Tú Hạp về
PHAM-THIÊN-THƯ: NON CAO TÌM ĐỘNG HOA VÀNG.
Những nhà chân tu Phật giáo ngày xưa quan niệm đi vào con đường Tôn Giáo phải xuất thế tìm nơi non cao tĩnh lặng để theo đuổi cuộc hành trình ngắn ngủi của một kiếp người. Một kiếp nhân sinh tạm bợ bằng thân xác đầy dẫy những sinh lão bệnh tử, thật cô đơn tội nghiệp hoang vu đến vô cùng buồn thảm. Nơi nương tựa thực tiễn chỉ còn cách quay về với chính cái Tâm sâu thẳm, để truy tầm sào huyệt Tâm Trí An Bình. Khi đã ngộ Tâm Chánh Niệm lúc đó mới đạt đến niềm hạnh phúc viên mãn trong đời sống. Nhiều Thiền sư đã diện bích để soi tâm, tìm chính con đường Tâm đạo:
Diệu tính hư vô bất khả phàn
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn.
(Thi Tịch)
Tính không huyền diệu vô vàn
Tâm không ngộ được nghĩ bàn gì đâu?
Núi cao ngọc cháy đậm màu
Trong lò sen thắm cho dầu lửa thiêu...
(Lời Dạy Trước Khi Mất - Thiền Sư Ngộ Ấn)
...
...Trong kinh Phật còn viện dẫn “Chiến thắng ngàn quân không bằng tự chiến thắng mình. Đó là chiến công oanh liệt nhất”. Ông Phạm Thiên Thư như một đạo sĩ xuống núi từ Chùa Pháp Hoa và ông như người rao giảng thâm thúy về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... nhất là ông đã thi hóa Kinh Kim Cương Bát-Nhã quả là một hành động phi thường.
ReplyDeleteMầu nhiệm thay Kim Cương!
Lạ lùng thay Kim Cương...
...Ước gì lòng tôi biến thành Kim Cương để phá tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để kết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.
Phải chăng đấy là cái tâm “Ứng vô sở trụ mà Sinh” nó đã dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đã làm sao cho Thái Tông khoát nhiên tự ngộ vai trò lãnh đạo nhân dân “dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục”. Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngõ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:
“Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”
(Giáo sư Nguyễn Đăng Thục
giới thiệu Phạm Thiên Thư).
Những nhà thơ Phật giáo đa số thường thi triển nguồn cảm hứng dựa trên nền tảng tôn giáo và thiên nhiên, nhất là những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... và các bậc thiền sư này đã tạo cho giòng văn học Việt Nam càng phong phú, giá trị và sâu sắc hơn những nét đặc thù của mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và dân tộc.
Sự xuất hiện bất ngờ khoảng thời gian 1969 với ba ngàn hai trăm năm mươi bốn (3254) câu thơ Trường Thiên lấy tên “Đoạn Trường Vô Thanh” được xem như hậu Truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn Du. Liên tục những năm sau Nguyễn Du có Chiêu Hồn, ông có Chiêu Hồn Ca, Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu, Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... Phạm Thiên Thư xuất hiện rất muộn và lại ngưng rất sớm, nhưng ông đã đóng góp vào giòng văn học Việt Nam những thành tích không nhỏ. Một trong những tác phẩm này, Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc vào năm 1971. Người đời đã bắt đầu yêu thơ ông qua những thi phẩm “Ngày Xưa Hoàng Thị” “Động Hoa Vàng”... được nhạc sỹ Phạm Duy phổ thành ca khúc.
Cuộc chiến đang đến hồi bùng vỡ ở nhiều mặt trận cao nguyên, miền địa đầu giới tuyến, mỗi ngày đều nhìn thấy những chiếc trực thăng trắng chở những chiến sĩ bị thương từ chiến trường về những bệnh viện ở những thành phố miền Nam, tâm trạng thanh niên hoang mang, cảm thấy đời sống buồn bã, thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như viên thuốc an thần:
...Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Ừ, thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
Sông này chảy một giòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
...Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
...Thì thôi! tóc ấy phù vân
Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
...Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
(Động Hoa Vàng)
...
...Tôi cũng đồng ý qua nhận xét của nhà văn Võ Phiến: “Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi, rước em nọ... thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em nầy em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới Kinh Hiền, Kinh Ngọc, không biết chuông mõ gì ráo, thì trong kho tàng thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt đi chứ...”
ReplyDeleteTam Đảo Hạnh Phu (Yukio Mishima) một trong những nhà văn nổi tiếng của Nhật, ông có viết một truyện ngắn với nhan đề “Chuyện Tình Của Nhà Sư Chùa Shiga” ông đã diễn tả cái nghịch lý ghê gớm xảy ra trong nội tâm của một thiền sư giữa tình yêu và đạo lý... Cuối cùng “Thiền sư đã quyết định từ bỏ tất cả để ra đi. Lòng Thiền sư thật bình thản, trống không. Cái trống không thật viên mãn vì ông đã chiêm nghiệm được ở cái hố thẳm vô cùng tận đó chỉ là Sắc, Không...”
Cái điều ỡm ờ nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho thế gian ngẩn ngơ, hoài nghi cái chân lý ông đang đeo đuổi. Một ông sư đã biết yêu và biểu lộ tình yêu một cách quá quắt khác thường, lãng mạn còn hơn những chàng trai bình thường mới biết yêu:
...Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ...
...Môi em mỉm cười
Mang mang sầu đời, tình ơi!
...Ôi! Con đường về
Bông hoa còn đẹp
Lòng sao thấm mệt
Ngắt vội hoa này
Nhớ người thuở xưa...
(Ngày Xưa Hoàng Thị)
...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...
(Pháp Thân)
Mặc dù đang ở vào thời đại cuối thế kỷ 20, nhưng tình yêu đối với nhà sư Phạm Thiên Thư vẫn còn những cảm xúc thánh thiện, khép kín một chút bẽn lẽn khi hai người yêu nhau không dám gần nhau trong bàn tay nắm, vì sợ tình yêu sẽ tan biến đi như sương khói:
...Anh trao vội vàng
Chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở
Muôn thuở còn vương...
...Cũng như anh chàng Xuân Diệu thời tiền chiến:
ReplyDelete...Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ...
Im lìm không dám nói năng chi
(Trăng)
Không dám nói vì sợ âm thanh tan vỡ giây phút linh thiêng tỏ tình. Tất cả sự biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng. Im lặng của thủy triều phá vỡ ruộng đồng núi non không biết chừng.
...Đôi mày là Phượng cất cao
đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
...dù mai lều cỏ chân trời
khói hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay...
Tình yêu của nhà Sư nồng nàn quá, đến nỗi con vạc bờ kinh nó cũng ghẹo nhà Sư ỡm ờ trần tục:
...Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
(Động Hoa Vàng)
Ở cái thế giới thi ca Phạm Thiên Thư chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo tình yêu và thiên nhiên, mặc dù ông chỉ mới xuất hiện một thời gian ngắn ngủi trước khi trang sử Văn Học Miền Nam xếp lại. Nhiều người tin cho biết, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn ngây thơ non dạ, thực hiện cuốn Kinh Hồng để ca ngợi chế độ mới, nhưng ông đã lầm khi ông chuẩn bị viết những trang đầu thì chính những “Đoạn Trường Vô Thanh”, “Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài”, “Kinh Ngọc”, “Kinh Hiền”, “Kinh Thơ...” bị hỏa thiêu một cách thê thảm chung với số mệnh những tác phẩm của những nhà thơ, nhà văn miền Nam mà chúng gọi “Sản phẩm văn hóa đồi truỵ của Mỹ-Ngụy”. Ông bị xem như nhà thơ đứng bên lề của “giòng thác thi ca Cách Mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Thi sĩ Phạm Thiên Thư u buồn thất vọng não nề.
“Thôi thì thôi, chỉ phù vân
Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi...
Nhắc đến thuở vàng son trước 1975, ông là thi sĩ trẻ làm thơ say mê không biết mệt, có khi mỗi ngày ông có thể sáng tác mấy trăm câu thơ một cách dễ dàng. Nhà văn Võ Phiến có nhắc lại sự kiện nầy trên Tạp Chí Làng Văn xuất bản tại Canada: “...Cuốn Kinh Hiền mười hai ngàn câu ông viết trong một năm rưỡi: Việc Đạo phải nỗ toàn lực nên thế. Còn cuốn Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài gồm 111 bài thơ, ông cũng chỉ làm xong trong vòng hăm ba ngày. Mỗi ngày năm bài thơ, đều đều. Lý do gì vậy?... Không ai đi trách một người... làm quá nhiều thơ. Duy không biết có phải cái lượng làm hại cái phẩm chăng. Vì trong cái lượng đồ sộ nọ, số dở quá nhiều. Trong lắm bài có những câu thật hay lạc vào giữa các câu dở làm ta tiếc ngẩn ngơ...”
Nhưng có điều còn tiếc sâu xa hơn. Ở một tài năng thấu triệt Kinh Kim Cương vi diệu cao siêu đến như thế, đã ước mơ... “Kiếp sau làm chim trong sương. Về bay hóa độ mười phương trời vàng...” thì còn bon chen gì cõi tạm phù sinh. Hãy trở về Chùa Pháp Hoa diện bích, để thôi nhìn nắng quái đang đốt cháy những đóa hoa dịu dàng lung linh trong gió thoảng. Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là khung cửa hư ngụy... thì còn thiết tha gì đối với chốn bụi hồng?//
Ghi thêm: Hội chứng nói dài. QH biết mình có bệnh..nói dai, dài...Nhiều lần chữa bệnh mà vẫn không hết và không thuyên giãm.
Cho nên cứ phải nói dài dài...cho rõ chuyện.
Chúc các Bạn Vui, Khỏe...để đọc.
Trang Thơ lần này thật thú vị - NT vẫn thích đi hết vòng vo cõi ta bà từ Đông sang Tây, từ một bài thơ cho đến hết mọi ngõ ngách thật của cuộc đời - bài về Nẫu ... rồi sang đến chén cổ, thơ cổ và dừng lại Cổng chùa Phạm Thiên Thư
ReplyDeleteÔi biết bao nhiêu điều học hỏi vì ... thế đấy, NT vẫn chưa biết hết và đôi khi biết rồi đọc lại vẫn còn " ngậm mà nghe " như thơ Phạm Thiên Thư
Hà ... hà ... bài viết " dài và dai " của bạn thơ Phạm Thiên Thư ấy hả ... NT cất vào kho để mai mốt ngẩn ngơ tiếp !
Hà ... hà ... bài viết " dài và dai " của bạn thơ Quê Hương ấy hả ... NT cất vào kho để mai mốt ngẩn ngơ tiếp !
ReplyDeleteHà Hà, nhà thơ Tháng sáu ơi!
ReplyDeleteCái gì làm được hôm nay thì hãy làm ngay, vì ngày mai có chuyện của ngày mai dó nhà thơ à !
Cái gì cất vào kho là ...mốc meo thôi!
hà hà..., nói như kiểu NT là trùng ý đây rồi, rất nhiều để học hỏi vì mình chưa biết hoặc biết lơ tơ mơ, kinh nghiệm sống cũng có đó nhưng so với những bạn mình ở đây thì chả là gì cả. Biết bao nhiêu bài viết, bài sưu tầm hay ngay trên Trang thơ này, đọc vài lần chưa chắc nhớ thì tốt nhất là cất vào một chỗ nào đó đặng khi nào có người hỏi đố mình hoặc cần "khoe khoang" trong câu chuyện rôm rả thì mình giở cái tủ ra mà ôn luyện văn võ trước ắt là lưu loát thôi.
ReplyDeleteKhông biết ông thần ViVu say hay tỉnh??Coi chừng ..lại đi dành trăng với Lý Bạch tiên sinh thì thế gian mất đi một "théc méc gia "tài ba.(đùa tí nghe bác)
ReplyDeletevề PhạmThiên Thư quả là nhiều điềuchưa biết .ViệtNam mình thật nhiều những nhà THơ Họa (vừa làm thơ vửa là vẽ tranh trong thơ,người đọc cảm nhận ngay tác giả tự minh hoạ những gì mình muốn nói)
ViVu còn những thắc mắc gì nữa?để còn nghe ké với.............
Từ trước tới nay SM hiểu biết hời hợt về từ " Nẫu" , đọc qua bài sưu tầm cặn kẽ của Sao thấy mắc cỡ cho những suy nghĩ tầm thường của mình về người xứ này. Nội chỉ có câu:
ReplyDeleteDân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”.
là cũng thấy phần đông họ yêu chuộng hòa bình, bình chân như vại, thế có chút gì Thiền định phảng phất ở điểm này không các bạn? Hy vọng KV cũng bằng lòng với vụ "chiếm đất" mà nới rộng ra đưa đẩy, nói chuyện linh tinh ngoài lề Tuổi Hoàng hôn nghe.
Thật ngưỡng mộ thiền sư Phạm thiên Thư !
ReplyDelete"...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương"
để rồi:
“Thôi thì thôi, chỉ phù vân
Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi..."
Lòng tỉnh lặng mặt hồ
Tâm trong vắt trời xanh
Một mùi hương theo gió
Vang vang vọng chuông chùa
Tỉnh Lặng !
Thien Thanh said...
ReplyDelete(vừa làm thơ vừa là vẽ tranh trong thơ, người đọc cảm nhận ngay tác giả tự minh hoạ những gì mình muốn nói)
Một câu viết mới đọc tưởng chừng đơn giản, nhưng theo tôi thêm một người nữ trên Trang Thơ...thật tuyệt!
KV im lặng lắng nghe các huynh nói chuyện đây SM và NT ơi !Đây cũng là điểu bổ ích , mở rộng kiến thức cho mình. Các huynh chiụ nói thì các tỉ muội mình chiụ nghe
ReplyDeleteTrong tất cả tác phẩm văn học kim cổ, cho đến bây giờ, NT đọc nhiều nhất là Truyện Kiều, kế đó là thơ Phạm Thiên Thư ... Hồi xưa (trước năm 75), NT có hết tất cả tập thơ của nhà thơ ấy, sang đây rồi thì không tìm mua lại được, chỉ mua lại được Truyện Kiều mà thôi . Tiếc làm sao đâu !
ReplyDeleteHà hà,
ReplyDeletePC tưởng có một mình nhà thơ NT thích cất vào kho, nay lại có thêm người thứ 2 thì PC xin tải hàng đến tận cửa kho đây.
Để những ai ngưỡng mộ thơ Phạm thiên thư có đủ bài để thưởng thức, PC xin tải vào đây một số bài tiêu biểu đã vang danh một thời. Trước tiên nó về tác giả:
Cõi thơ Phạm Thiên Thư
Trong bài Phạm Thiên Thư, người thi hóa kinh Phật, Hà Thi viết:
Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam Việt Nam) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: Em lễ chùa này, Ngày Xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu...Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ...Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên.
Hoàng Nguyên Vũ trong bài Cõi lạ Phạm Thiên Thư còn cho biết thêm:
ReplyDeleteNhà thơ Phạm Thiên Thư sinh trong một gia đình bố mẹ làm nghề bốc thuốc nhưng thích thơ văn. Tuổi thơ của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho ông được những tiền đề thuận lợi, nhưng để một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm 1958, sau một biến động của cuộc đời... Chuyện là ông có nhóm bạn thơ họa Hồ Quý Ly, tụ tập đàn đúm thơ phú đêm ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ “ương ương dở dở”, cảnh sát chế độ Sài Gòn cũ đã vây bắt. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng... Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo: Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi... Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam...Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ...
Sau đây là các bài thơ:
ReplyDeleteVàng đóa hoa dương
Đêm đêm ta trở về
Hồn ta còn ẩn lại
Dưới chùm hoa man dại
Là nụ cười lách lau
Những giờ ta xa nhau
Là tình thêm níu lại
Mười ngón dài vụng dại
Cầm mảnh ngày rơi mau
Thời gian như con cá
Quẫy khỏi lòng bàn tay
Thời gian như chiếc lá
Rụng xuống đau nhành cây
Thêm một ngày mất đi
Gói buồn trong tà áo
Ta gửi hồn khờ khạo
Nấp trong rừng tóc hương
Ai có đi bên đường
Vô tình va cánh gió
Có nghe gì trong đó
Một tiếng lòng ta vương
Một ngày như sông Thương
Một nửa trong nửa đục
Ta thương con bèo lục
Vàng một đóa hoa dương
Nẽo đường hoa
ReplyDeleteTa gặp nhau làm gì
Cuối nẻo đường hoa rụng
Ta gặp nhau làm gì
Đau lòng con chim di
Thời gian cất cánh bay
Qua rừng này rừng nọ
Ta làm sao hóa gió
Theo tóc người lênh đênh
Ta ướm hoài dấu chân
Chưa vừa lòng nỗi nhớ
Tóc em hồng dây nhợ
Chăng lối về xanh xanh
Một tấm ngày như tranh
Ta cuốn vào kỷ niệm
Một mặt trời huyền nhiệm
Đã lặn tròn đáy tim
Áo em vàng như chim
Bay tung trời bát ngát
Gieo hồn ta mấy hạt
Chợt nẩy mầm vô biên
Con đường dài triền miên
Hàng cây xanh gỗ trắng
Ta đi về thầm lặng
Đèo mặt trời trên yên
Mười ngón dài thu xuân
Vuốt dương cầm tóc rối
Ta là con vạc lội
Bến sương mờ sông Ngân
Gặp nhau muôn nghìn lần
Như lá mùa thu rụng
Ta nghe lòng lúng túng
Đốt thuốc ngồi phân vân
Đi kiếm hoài dấu chân
Hè phố rêu biền biệt
Làn tóc em chảy miết
Đưa ta vào biển xuân
Trang Nghiêm
ReplyDeleteEm như nụ bưởi
Vừa chín thơm bay
Anh khoa bàn tay
Tôn vinh dâu bể
Dáng em lau gầy
Vươn từ khổ đế
Mỉm cười thơ ngây
Trang nghiêm cõi này
Em là nụ lệ
Là hạt rượu say
Giữa chán chường đầy
Dáng em thấp thoáng
Mấy pho thơ dầy
Như khói như mây
Áo lụa
ReplyDeletemột sợi tóc biếc
dài như mưa thu
lẫn trong sương mù
guốc nào động nhỏ
hoa nào rơi thưa
ai kia áo lụa
bước đi chần chừ
Biết đâu
ReplyDeleteBiết đâu tươi hồn xuân
Ẩn sau con mắt héo
Biết đâu tình trong trẻo
Sau nụ cười khô khan
Biết đâu sợi dây đàn
Giận thốt lời ly biệt
Không dứt tình tha thiết
Buộc tròn hai trái tim
Biết đâu một cánh chim
Nối hai miền tiếc nuối
Biết đâu hòn đá cuội
Lăn tròn mấy ngàn năm
Biết đâu ta yên nằm
Trên môi người huyễn hoặc
Trong nỗi sầu dằng dặc
Phóng muôn nghìn mũi lao
Biết đâu qua lưỡi dao
Bén những lời thánh thiện
Biết đâu con én liệng
Lời lẽ một mùa xuân
Biết đâu trăm nghìn lần
Cũng không ai ngờ nổi
Ta xin người chớ vội
Đem cuộc đời đo cân
Vết chim bay
ReplyDeleteNgày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ
Con chim nào qua đó
Còn để dấu chân in
Anh một mình gọi nhỏ
Chim ơi biết đâu tìm
Mười năm anh qua đó
Còn vẫn dấu chân chim
Anh một mình gọi nhỏ
Em ơi biết đâu tìm
Ngày xưa anh đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ anh qua đó
Còn thấy chữ trong chuông
Anh khoác áo nâu sồng
Em chân trời biền biệt
Tên ai còn tha thiết
Trong tiếng chuông chiều đưa
Ngày xưa em qua đây
Cho tình anh chớm nở
Như chân chim muôn thuở
In mãi bực thềm rêu
Cõi người có bao nhiêu
Mà tình sầu vô lượng
Còn chi trong giả tướng
Hay một vết chim bay
Thuyền trăng
ReplyDeleteNhư con người thái cổ
Nhìn trăng ta rùng mình
Ước chi là bến đỗ
Ôm cánh thuyền thuỷ tinh
Sao như bầy hải âu
Bay quanh thuyền ánh sáng
Chở khối tình quá vãng
Xuôi về đâu – về đâu
Ta không là sông sâu
Mà nghe hồn sóng vỗ
Ta không là bến đỗ
Mà sao tình vấn vương
Tà áo trắng như sương
Ai theo thuyền đâm độ
Nỗi sầu ta nở rộ
Như ngàn hương – ngàn hoa
Từ một thời rất xa
Mịt mù trong dã thoại
Đêm nay ta gặp lại
Trái tim mình trong trăng.
Ngày xưa Hoàng thị
ReplyDeleteEm tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non dấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dấu lau lách buồn
Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng
Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở
Thương ơi vạn thuở
Biết nói chi nguôi!
(tiếp)
Em mỉm môi cười
ReplyDeleteAnh mang nỗi nhớ
Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ôi mối tình đầu
Như đi trên cát
Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhoà mau
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xoá dấu ngày qua
Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ
Phố ơi muôn thủa
Giữ vết chân tình
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời
Tình ơi! Tình ơi!
(Tuyệt!!)
Bài "Đưa em tìm động hoa vàng"
ReplyDeletecó 100 khổ mời bạn đọc...từ từ
1
Mười con nhạn trắng về tha
Như Lai thường trụ trên tà áo xuân
Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
2
Xe lên bụi quán hoa đường
Qua sương trắng dậm phố phường úa thu
Tiếng chim ướt sũng hai mùa
Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua
3
Dế buồn dỗ giấc mù sa
Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay
Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ
4
Con khuyên nó hót trên bờ
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Tưởng xưa có kẻ trên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa
5
Tóc dài cuối nội mây xa
Vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay
Dùng dằng tay lại cầm tay
Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa
6
Từ chim thủa núi xa xưa
Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng
Từ em khép nép hài xanh
Về qua dục nở hồn anh đóa sầu
7
Ừ thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông
8
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
9
Đường về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
10
Sao em bước nhỏ ngập ngừng
Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ
Đêm về thắp nến làm thơ
Tiếng chân còn vọng nửa tờ thơ tôi
11
ReplyDeleteĐôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
12
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
13
Tường thành cũ phiến bia xưa
Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
Chiều xanh vòng ngọc trao tay
Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha
14
Đêm dài ươm ngát nhụy hoa
Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia
Em ơi rủ tóc mây về
Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay
15
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ
Tìm trang lệ ố hàng thơ
Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di
16
Mây xưa cũng bỏ non về
Em xưa cũng giã câu thề đó đây
Nhớ đành biết mấy tầm tay
Lông chim biển bắc hoa gầy bãi đông
17
Đợi ai trăng rõi hoa buồn
Vắng em từ thủa theo buồm gió xuôi
Chiều chiều mở cổng mây trôi
Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm
18
Thế thôi phố bụi xe hồng
Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay
Đưa nhau đấu rượu hoa này
Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm
19
Xuống non nhớ suối hoa rừng
Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
Về thành nhớ cánh chim bay
Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa
20
Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần
Em về hong tóc mùa xuân
Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành
21
ReplyDeleteEm nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
22
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
23
Gầy em vóc cỏ mây dời
Tay em mai nở chân trời tuyết pha
Ngày dài ngựa soải cầm ca
Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương
24
Xe lăn bánh nhỏ bụi hường
Lao xao vó rụng trên đường phố mây
Mưa giăng ráng đỏ hao gầy
Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa
25
Chim nào hát giữa thôn hoa
Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay
Lụa nào phơi nắng sông tây
Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông
26
Con chim mùa nọ chưa chồng
Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu
Từ em giặt áo đông tơ
Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm
27
Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào
Cửa sương nhẹ mở âm vào
Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca
28
Lên non cuốc sỏi trồng hoa
Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương
Vớt con cá nhỏ lòng đòng
Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ
29
Vào non soi nguyệt tầm rùa
Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư
Thả rùa lại đứng ưu tư
Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa
30
Em nghiêng nón hạ cầu mưa
Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về
Hoa sầu cỏ cũng sầu chia
Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha
31
ReplyDeleteĐất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
32
Người vui ngựa chợ xe thành
Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
Theo chân chim gặp mây trời
Lại qua khói động hỏi người tu non
33
Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng
Con ong nhỏ mới ra giàng
Cũng nghiêng đôi cánh nhụy vàng rụng rơi
34
Mùa xuân bỏ vào suối chơi
Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa
Múc bình nước mát về qua
Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa
35
Chim từ bỏ động hoa thưa
Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông
Lên non kiếm hạt tơ hồng
Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay
36
Người về đỉnh núi sương tây
Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa
Bến nam có phố giang hà
Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say
37
Tình cờ anh gặp nàng đây
Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
Qua sông có kẻ chợt buồn
Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu
38
Mốt mai em nhớ bao giờ
Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không
Chân chim nào đậu bên cồn
Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim
39
Đợi người cuộc mộng thâu đêm
Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa
Anh nằm gối cỏ chờ hoa
Áo em bạch hạc la đà thái hư
40
Em từ rửa mặt chân như
Nghiêng soi hạt nước mời hư không về
Thâu hương hiện kính bồ đề
Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi
41
ReplyDeleteTa về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
42
Ngựa xưa qua ải sương này
Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông
Nước xuôi gờn gợn mây hồng
Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò
43
Hoa đào tưởng bóng đào xưa
Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi
Hoa dương vàng nhạt sầu người
Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng
44
Đưa nhau đổ chén rượu hồng
Mai sau em có theo chồng đất xa
Qua đò gõ nhịp chèo ca
Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say
45
Khăn trăng từ độ trao tay
Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương
Mốt mai lòng có nghe buồn
Mảnh trăng hiện hóa thiên đường cõi chơi
46
Nhện cheo leo mắc tơ trời
Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương
Đánh rơi hạt mận bên đường
Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa
47
Nụ vàng hương rộ tháng ba
Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương
Chẳng như cội liễu bờ dương
Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không
48
Mai nào thơm ngát thu đông
Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh
Đôi chim hồng yến trên cành
Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang
49
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
50
Nến khuya lửa hắt hiu vàng
Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
Ý nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
51
ReplyDeleteDỗ non suối giọng thầm thì
Độ tam thế mộng xá gì vóc hoa
Ni cô hiện giữa ta bà
Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng
52
Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng
53
Đố ai nhớ hết hoa vàng
Đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu
Đố ai tát cạn mạch sầu
Thì ta để tóc lên cầu đón ai
54
Em về sương đẫm hai vai
Dấu chân là cánh lan dài nở đêm
Từ em hé nụ cười huyền
Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa
55
Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca
Sư về chống gậy trúc qua cầu này
Ngó bờ suối lạnh hoa bay
Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh
56
Có con cá mại cờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Nửa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi
57
Dù mai lều cỏ chân trời
Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ
Em còn ửng má đào tơ
Tóc xưa dù có bây giờ sương bay
58
Lên non ngắt đóa hoa này
Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa
Nom hoài chẳng rõ là ta
Tắm xong khoác áo hát ca về làng
59
Tay đeo vòng ngọc xênh xang
Áo em bay giải tơ vàng thiết tha
Bước chân tìm chán ta bà
Ngừng đây nó hỏi: đâu là vô minh
60
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: thưa bác thiên thư
Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ
61
ReplyDeleteNước đi từ thủa bao giờ
Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi
Chừng đâu dưới bến hoa tươi
Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông
62
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo trắng em cất áo hồng em mang
Chiều nay giở lại bàng hoàng
Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh
63
Đôi chim nho nhỏ trên cành
Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường
Nửa đời mây nước du phương
Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân
64
Gò chiều ùn bụi sương lên
Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng
Bên mồ chồn cáo đùn hang
Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga
65
Cuối xuân ta lại tìm qua
Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn
Sớm thu ta đánh đò sang
Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa
66
Trúc thưa cổng gió ơ hờ
Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng
Sông ơi xanh nhé một dòng
Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa
67
Đường dài xao xác chim ca
Người còn khoác nón theo tà dương nao
Ván cờ bày trắng bông đào
Sao lên núi thẫm trăng vào chén không
68
Đồi thu vắt suối mây hồng
Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên
Bấc sầu lửa lụn chờ em
Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này
69
Đón em như ngóng chim trời
Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu
Em còn áo trắng ngày xưa
Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen
70
Khơi trầm thơm tụng kinh hiền
Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da
Vườn chùa có nụ hàm ca
Sương khuya: pháp bảo trăng tà: vô môn
71
ReplyDeleteMai tươi cánh nở bên cồn
Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời
Thu đông tàng ẩn kho trời
Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa
72
Cổng làng mở cánh sao sa
Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai
Lên chùa dâng dĩa hoa nhài
Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư
73
Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
Điệu về tay giấu chùm bông
Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa
74
Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương
Gió thu từ độ tha phương
Về trên hốc gỗ bên đường lặng im
75
Áo em vạt tím ngàn sim
Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ
Yêu nhau từ độ bao giờ
Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay
76
Tình cờ như núi gặp mây
Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao
Tỉnh ra thì giấc chim bao
Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng
77
Cành sen lá chĩu sương trong
Áo ni xám vạt trời hong buồn về
Tay nào nghiêng nón thơ che
Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao
78
Đôi mày là phượng cất cao
Đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây
79
Tóc em rừng ngát hương say
Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà
Mắt xanh bản nguyện di đà
Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim
80
Mắt nàng ru chiếc nôi êm
Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời
Em là hoa hiện dáng người
Tôi là cánh bướm cung trời về say
81
ReplyDeleteMột đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay phật chỉ người qua sông
82
Non xanh khoác áo sương hồng
Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay
Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay
Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa
83
Em bên cửa chuốt tay ngà
Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành
Ngày em ướp áo hồ xanh
Con uyên tha thiết trên cành gọi thu
84
Ni về khép cửa chùa tu
Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng
Thu vương ngọn chổi đôi bông
Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên
85
Sư lên chót đỉnh rừng thiền
Trong tim chợt thắp một viền tà dương
Ngón tay nở nụ đào hương
Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời
86
Một dòng hoa nổi trên trời
Một dòng hoa nở trong người trầm tư
Cánh nào mở cõi không hư
Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang
87
Thư em ướp nụ lan vàng
Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa
Áo em phất cõi di đà
Ngón chân em nở cánh hoa đại từ
88
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
89
Ngày xưa bên dậu vàng hoa
Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
Năm sau em bỏ đi rồi
Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn
90
Trên nền gạch nẻ rêu phong
Xưa phơi nhã điệu giờ hong đóa quì
Trẻ đào bãi cỏ xanh rì
Được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han
91
ReplyDeleteNon đem nhạn nhốt trong thành
Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu
Người còn dệt lụa tằm dâu
Đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn
92
Núi nghiêng suối vắt tơ đàn
Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa
Nghiêng bình trà nhớ hương xưa
Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa
93
Sáng nghe lan rụng mái nhà
Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này
Đường về mù mịt ngàn mây
Về nam đôi cánh chim bay xạc xào
94
Mây dù chẳng chất non cao
Đường về dù chẳng sông đào nông sâu
Đêm đêm lòng dục nẻo sầu
Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm
95
Nhớ cha giọt lệ khôn cầm
Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh
Nghiêng ly mình cạn bóng mình
Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay
96
Gối tay nệm cỏ nằm say
Gõ vào đá tụng một vài biển kinh
Mai sau trời đất thái bình
Về lưng núi phượng một mình cuồng ca
97
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm tát cá xâu cây
Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim
98
Khách xa nhớ đến nhau tìm
Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn
99
Vào hang núi nhập niết bàn
Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe
Mai sau thí chủ nào nghe
Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh
100
Hoa vàng ta để chờ anh
Hiện thân ta hát trên cành tâm mai
Trần gian chào cõi mộng này
Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên
Giữa mộng và thực có khi chỉ cách nhau một vài "séc na". Một Phạm thiên Thu trong văn học tuyệt vời và một Phạm thiên thư ngoài đời tầm thường...PTT sau 1975!
ReplyDeleteĐiều nầy chứng tỏ bài thơ Tuổi hoàng Hôn của KV cũng tuyệt diệu!
Chuyển dùm Ngàn Sau
ReplyDeleteTỪ ĐÂU ĐÓ...
Thôi nhớ làm chi một giòng sông
Người xưa khô lệ đã chờ trông
Chiếc cầu mơ ước nằm yên ngủ
Trong kỷ niệm buồn ký ức dâng !
Ta đến rồi đi là sự thường
Sớm mai rồi lại đến chiều hôm
Buồn vui rồi cũng theo năm tháng
Hãy sống yên bình ,trí hanh thông !
Trần gian ảo ảnh có như không
Hãy sống cùng nhau cho thoả lòng
Mặc kệ thói đời tan theo bụi
Hoàng hôn sẽ tới bóng chiều buông !
NS
This comment has been removed by the author.
ReplyDeleteCám ơn chị NS với bài thơ TỪ ĐÂU ĐÓ.Một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng ý thật sâu sắc hở chị.
ReplyDeleteCám ơn huynh PC với những bài thơ của PTT. Hồi nhỏ KV rất thích bài hát Ngày xưa Hoàng Thị . Thơ của PTT thật tuyệt vời. Cáng đọc sẽ thấy được sự tuyệt diệu trong thơ PTT. Với KV thì chưa dám nhận hai chữ này huynh PC nghe!
ReplyDeleteNói về tranh trong thơ mà QH đề cập , KV chợt nhớ đến bài thơ TÌM VỀ mà Vân đã làm cách dây hai năm.
Một nơi chốn an bình, thanh tịnh mà Vân hằng ước mong những ngày cuối đời mình được ở một chỗ như thế . Bài thơ này có thể Vân đã gửi cho các bạn thơ đọc rồi . Bây giờ đọc lại nghe
TÌM VỀ
Chuông chùa vang vọng xa xa.
Núi non bàng bạc , mây là đà bay.
Ánh dương tỏa xuống ngàn cây
Làn hơi sương nhẹ, lung lay sắc hồng
Chiếc cầu vòng nguyệt cong cong
Đưa ta đến chốn hư không, niết bàn
Lòng ta tìm cõi tịnh an.
Ngẩng cao trời rộng, muôn ngàn áng mây
Nhìn xuống đất thấp, là đây.
Vực sâu thăm thẳm , người say bụi trần,
Mái chùa trên đỉnh phù vân
Tiếng chuông thánh thót , lâng lâng tâm hồn.
Nhìn quanh trong cõi càn khôn
Nhịp chân ta bước dập dồn đắng cay.
Thế nên phủi sạch hai tay
Vứt danh , bỏ lợi ta quay tìm về.
Bồng lai ,vượt cả sơn khê.
Cách xa thế tục , bờ mê , thoát trần
Khánh Vân – Mây Lành (Jan 28 /09)
Thêm 1 bài thơ nữa của Phạm thiên Thư xin chuyển đến các bạn:
ReplyDeleteGuốc tía
con đường hoàng hoa
em mang hài lục
con đường bạch cúc
em mang hài hồng
con đường sầu đông
em đi guốc tía
anh ngồi thấm thía
cội sầu trổ bông
NT cám ơn bạn thơ Phượng Các đã cho NT đọc lại thơ của Phạm Thiên Thư
ReplyDeleteVẫn còn mê thơ ông ấy ! Đọc thơ PTT thấy mình lửng lơ giữa cổng chùa và cửa trần gian . Trần gian thì chộn rộn quá, cổng chùa thì tĩnh lặng quá - cái hay của nhà thơ là đứng ngoài hai vị trí ấy để nhìn cả hai - không biết NT nghĩ vậy có đúng không ?
Khi đọc một bài thơ được cho là hay, người đọc sẽ đắm chìm vào trong đó bằng tâm cảm của riêng mình và có thể mỗi người mỗi khác.
ReplyDeleteKhi ta đọc được một bài thơ vừa ý và được cho là hay bởi có khi thi sĩ nói hộ lòng mình, và chúng ta thưởng thức một nét đẹp của tâm hồn, sự tài hoa của trí tuệ. Thậm chí đôi lúc chuyển thành sự khâm phục. Nhưng đó thuần là sự khâm phục tâm hồn và trí tuệ người đã viết ra những câu thơ mượt mà đó chớ nào phải là khâm phục con người trần gian?
Tôi xin nêu ra đây một ví dụ: Khi viết được một bài thơ gọi là Thơ Tình thì trong suy tưởng của người viết phải có một đối tượng để mình thủ thỉ. Đối tượng đó có thể là thực mà cũng có thể là một nhân vật tưởng tượng.
Giả định như đó là một nhân vật tưởng tượng là Nàng Thơ đang bay lượn quanh đây. Bao nhiêu ngôn từ trau chuốt, bao nhiêu lời hay ý đẹp, những nhung nhớ đều dành hết cho Nàng để kết thành một bài thơ tuyệt diệu. Nhưng nếu tôi “trần gian” một chút, cứ tưởng tượng thêm là suối tóc mây óng ả ủ kín hồn mình để dậy hương tình ái mà một tuần lễ nàng không gội thì sao đây nhỉ?
Chính bởi thế nên nếu đối tượng là một nhân vật có thực lại rơi vào hoàn cảnh ấy thì sao đây?
Cho nên, con người trần gian là một vế khác, không thể để nó nhập chung vào cõi thơ (chữ mọi người hay dùng)
Có ai tài giỏi để có thể chụp lại được những xúc cảm và tâm hồn một con người qua một bức ảnh không? Chắc đó chỉ là điều không tưởng. Cho nên Thơ là thơ, còn Người là người. Đừng đem cái diện mạo trần tục của một người so sánh với thơ mà làm giảm giá trị tinh thần của nó.
Lại nữa, chúng ta cũng thừa hiểu: Những cảm xúc của thời tuổi trẻ phải khác xa với khi đà luống tuổi.
Đố Ông Phạm Thiên Thư đang ở tuổi cổ lai hy có thể viết được những câu thơ mượt mà tương tự như bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thuở thanh xuân.
Hầu như ai trong độ tuổi chúng ta, có thể sớm hơn hay muộn hơn một chút đều biết đến Phạm Thiên Thư khởi nguyên từ bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị do Phạm Duy phổ nhạc.
ReplyDeleteHai cái tài gặp nhau đã để lại một tác phẩm để đời.
Xin biếu các bạn sính thơ Phạm Thiên Thư link dẫn dưới đây để lưu vào Favorites để khi cần cứ click chuột một cái thì sẽ có ngay trước mắt cái mình cần, khỏi phải lục lạo chi cho mất công.
Thơ Phạm Thiên Thư
Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
(Tham khảo: http://www.quangduc.com/coban/20cdhp04.html)
"sát na" là phiên âm tiếng Phạn (sanskit) chứ không phải chữ riêng nhà Phật.
Khi bài thơ của Khánh Vân vừa post lên Trang Thơ, chỉ đọc qua hai lần là tôi “cảm” ngay.
ReplyDeleteThứ nhứt là tựa đề: Tuổi HOÀNG HÔN.
Một cái tên lạ bởi phần đông mọi người hay gọi lứa tuổi trên 50 là tuổi xế chiều. Gọi chi cái tên mà nghe buồn bã vậy? Hoàng Hôn nghe hay hơn và đậm chất thơ hơn. Đành rằng cũng là một sự kiện, nhưng mỗi người có cách đặt tên khác nhau.
Cứ cho rằng ta đang dùng một trạng thái của thiên nhiên để áp vào một sự việc khác mà ta muốn mô tả theo ngôn ngữ thơ. Thường thì ai cũng cho rằng hoàng hôn là sắp kết thúc sau một ngày dài sống động, và chừng như lúc ấy mọi việc đang chìm lắng xuống như là một cách buông tay ngơi nghỉ.
Nương theo đó, tôi xin mở rộng suy nghĩ của mình thêm một chút. Hoàng hôn đâu chỉ để nói đến một ngày tàn? Nó còn có màu mây tía lãng đãng trên sắc trời chiều xui người ta mơ màng về một điều tuyệt diệu nào đó. Những đám mây trắng nõn đủ hình thù lang thang bay ngang bầu trời dịu nắng giúp cho mấy đứa trẻ đang ngã lưng trên bờ cỏ, khoanh hai tay gối sau đầu tha hồ cho trí tưởng tượng phiêu bồng về những con thú, những nhân vật sẽ hiện lên bầu trời nhạt nắng rồi tranh nhau sở hữu chúng, đôi khi xảy ra những cuộc tranh cãi. Tuổi thơ tôi từng đã có những buổi chiều như thế!
Chưa hẳn là chỉ một đoạn đời đầy ắp những suy nghĩ thơ ngây trong sáng đó đâu. Cũng có lúc tóc trên đầu đã bạc, tôi vẫn còn ngồi trên bờ biển Nha Trang nhìn những đám mây trắng tự đàng đông bay tới mà tưởng tượng vài điều.
Chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng ta vẫn cảm thấy hạnh phúc nếu biết cách đón nhận chúng.
Hoàng hôn đang đổ xuống với những tia nắng nhạt xuyên qua ráng chiều rơi xuống vai ta, ngồi với một vài người bạn trên chiếc đệm trải trên cỏ gần một bờ sông nhỏ, nhâm nhi vài ly rượu đế trong hơi gió nhẹ thổi hiu hiu thì quả là “tuyệt cú mèo”, nếu ta biết thưởng thức cuộc sống.
Hoàng hôn với những làn khói lam uốn éo bay lên từ những nếp nhà tranh của bữa cơm chiều dấy lên trong ta sự ấm cúng của buổi sum họp gia đình sau một ngày làm việc vất vả, ta không thấy tuyệt vời sao?
Với riêng tôi, sau hoàng hôn là màn đêm bắt đầu rón rén từng bước nhẹ về.
ReplyDeleteTrong bóng đêm càng lúc càng đậm màu trong hơi sương, đó là lúc tuyệt vời nhất cho những hẹn hò đôi lứa, cho những người có chút tâm hồn lãng mạn dễ viết lên những lời thơ tha thiết nồng nàn.
Bóng đêm sẽ xóa nhòa những góc cạnh của cuộc sống để chỉ còn lại trong ta những cảm xúc trong veo. Những tình tự sẽ theo gót đêm quay về với ngập tràn nhung nhớ. Đêm cô quạnh sẽ làm ta cảm thấy lẻ loi, nhưng có ai biết đâu ta hạnh phúc trong cõi vắng riêng mình?
Rồi cũng có một đêm nào đó, ánh trăng sẽ soi sáng cảnh vật quanh ta, soi sáng cả những tình cảm hiện có trong lòng. Dưới ánh trăng, mọi vật sẽ hiện lên trong vẻ mơ màng, tình cảm trong lòng sẽ được nhân lên gấp bội bởi khung cảnh quanh ta. Bóng lá sẽ che khuất những góc cạnh, những gai nhọn xù xì mà dâng cho ta vẻ đẹp của những đóa hoa tỏa hương thơm ngát nở vội thấm đẫm những giọt sương đêm trong vườn khuya.
Đêm là của những hạnh ngộ lứa đôi. Đêm là của những lời tình tự. Đêm là của những vòng tay, những môi hôn cuống quýt. Đêm là của những buông tay gọi mời cảm xúc dâng tràn. Hương đêm sẽ làm hương Tình yêu nồng nàn sâu thẳm hơn.
Thứ nhì là chữ CUỘN trong câu thơ đầu.
ReplyDeleteDòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ
Sao mà bạn thơ KHÁNH VÂN chọn được một chữ hay đến vậy? Tưởng như thu nhỏ gọn gàng lại để dễ dàng che dấu những xúc động riêng mình để chỉ mình ta biết ta mà thôi. Những hoài niệm, những hạnh phúc, những đớn đau nào đó ta đã trải qua giờ chỉ còn lại là nỗi nhớ!
Theo ý riêng tôi, một bài thơ hay là nhờ ở cái ý. Đó như cái sườn nhà để những ngôn ngữ thơ ca sẽ lợp mái lên đó. Nếu là những ngôn từ mộc mạc ta sẽ có một mái nhà tranh thơ mộng. Nếu là những từ ngữ đẫm chất Thiền, chất Đạo thì đó sẽ là chỗ thanh tịnh với khói hương bay. Nếu là những từ ngữ trau chuốt, đó sẽ thành một đền vàng lộng lẫy.
Tôi lại có chút mù quáng khi cảm nhận cái đẹp. Thốt nhiên nhìn thấy một đóa hoa đẹp, một người phụ nữ, một ánh hoàng hôn, một tiếng chim, một sắc mây...nếu đúng ý mình thì thích ngay. Không săm soi để coi nó đẹp chỗ nào để mình khả dĩ đặt lòng ưa thích vào nó, vì biết rằng mọi vật vốn bất toàn, có khi đôi điều không ưng ý sẽ làm suy giảm cảm xúc của mình thì thiệt là...uổng!
Tôi cũng thích chữ DUYÊN của nhà Phật.
ReplyDeleteThiệt sự tôi cũng không hiểu thấu đáo lắm đâu, chỉ biết cảm nhận theo suy nghĩ nông cạn của mình mà thôi.
Ví như khi nghe một vị sư giảng kinh, đâu phải tất cả mọi người đều thấu triệt lẽ nhiệm mầu, chỉ những người có duyên mới ngộ được cái thâm sâu của giáo lý Đức Phật.
Giữa con người với nhau cũng vậy. Phải có cái duyên thì người ta mới gặp được nhau. Tôi luôn luôn tin ở sự mầu nhiệm đó và cho rằng tất cả đều được sắp đặt sẵn đâu đó ở trên cao.
Tôi lại tin chữ duyên ở một mặt khác.
Khi con người gặp gỡ nhau rồi nảy sinh tình cảm, khởi đầu cũng gắn bó và hầu như đã thuộc về nhau theo các nghĩa, nhưng cớ sao lần hồi tình lại nhạt phai?
Có người thì cho rằng kẻ kia đã bội bạc rồi hậm hực bằng những câu nói hay thái độ không hay, nhưng riêng tôi lại nghĩ cái duyên giữa hai người đã hết thì họ rời xa cũng là lẽ đương nhiên. Có cố gắng níu kéo nhau cũng chỉ gặp những bẽ bàng làm mất đi vẻ đẹp của buổi ban đầu mà thôi!
Cho nên trong những câu thơ tôi đề cập đến chữ bội bạc trong Tình yêu chỉ như nói dùm ai đó chớ riêng tôi thì không hề đau khổ bởi hiểu rõ căn nguyên của vấn đề. Đã hết duyên thì tình sẽ nhạt phai, có điều gì trường tồn mãi mãi đâu? Cớ sao ta phải bực tức?
Nếu bạn thơ Khánh Vân vui lòng biếu cho tôi câu thơ đầu, chắc tôi có thể sẽ làm được một bài thơ.
Thiệt sôi nỔi.
ReplyDeleteCác bạn thơ đang chờ KHÁNH-VÂN "ừ" một tiếng, để còn thưởng thức những vần thơ mượt mà của bạn thơ Sao.
Trong khi chờ đợi, mờI các Bạn cùng thưởng thức...
"ÁO NHUỘM HOÀNG HÔN".
GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU
Thơ Phạm-Thiên-Thư
Phạm Duy phổ nhạc
Vũ Khanh trình bày
Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn
Áo nhuộm hoàng hôn, áo nhuộm hoàng hôn
Bóng ai cắp rổ, cắp rổ lên cồn
Lên cồn hái dâu, hái dâu
Tiếng nàng hát vọng đôi câu
Hát vọng đôi câu, hát vọng đôi câu
Dừng tay viết mướn ối a lòng sầu
Lòng sầu vẩn vơ vẩn vơ sầu
Lều tranh còn ủ trăng mơ
Còn ủ trăng mơ, còn ủ trăng mơ
Mối tình làm một bài thơ vô đề
Ẩn Lan ơi, ơi mái tóc thề
Ẩn Lan ơi, ơi mái tóc thề
Mùa xuân nay làn gió có về
Vỗ về hương xưa đêm nao học dưới
Học dưới trăng mờ giòng chữ hững hờ
Thoảng nghe tiếng hài của em
Tiếng hài của em, tiếng hài của em
Như sương lắng đọng lắng đọng trên thềm
Trên thềm ngõ sau ngõ sau
Em cười đem lại cho nhau
Đem lại cho nhau, đem lại cho nhau
Sợi tơ mớ tóc ối a buộc vào
Buộc vào với hoa, hoa ngâu vàng
Ngủ quên trên sách mơ màng
Tập sách thơm ngoan
Áp má mê man gió lùa tỉnh dậy
Mùi Lan chập chờn ẩn Lan ơi
Em dỗi em hờn
Ẩn Lan ơi em dỗi em hờn
Ẩn Lan ơi như những cơn buồn
Nỗi buồn thơm lâu em ơi gọi em
Là đóa hoa sầu là Đóa Hoa Sầu
GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU. VŨ-KHANH TRÌNH BÀY.
QH ơi ! KV " ừ " liền đây . Bây giờ KV đang chờ đọc bài thơ của bạn S@ đó nghen ! .
ReplyDeleteGIẤU HỘ EM
ReplyDeleteDòng sông nhỏ cuộn mình trong nỗi nhớ
Cuộn dùm em cả một mớ tơ lòng
Giấu hộ em cho hết những nhớ mong
Những say đắm tình đầu không trọn vẹn.
Ủ kín hương của những lời thề hẹn
Hạnh phúc ơi! Sao nghèn nghẹn trong chiều
Dòng sông xưa dung chứa biết bao điều
Những hoài niệm, biết bao nhiêu mất mát!
Sông chứa cả chút hồn em tan nát
Em xẩy tay rơi thơm ngát tình đầu
Đến với em lộng lẫy những sắc màu
Ngày tháng cũ sao nhìn đâu cũng thấy.
Nhớ thuở đó ta ngại ngùng biết mấy!
Đất trời kia như cũng dậy hương yêu
Ánh mắt anh muốn nói biết bao điều
Ngồi bên nhau trong bóng chiều mờ mịt.
Giấu hộ em nụ hôn đầu cuống quít
Anh dịu dàng run rẩy vít môi sen
Em tưởng đâu đang ngây ngất hơi men
Hương tình ái sao bỗng quen bỗng lạ!
s@...
Cám ơn bạn S@ với bài thơ "Giấu hộ em". Một bài thơ tình thật hay và rất lãng mạn
ReplyDeleteTrong bài thơ TUỔI HOÀNG HÔN của Vân , thành thật mà nói KV không nhớ mối tình đầu, nếu có thì cũng nhẹ nhàng thôi, mặc dù mối tình đầu ai cũng có và cũng nhớ cả, nhưng nỗi nhớ trong Vân nhiều nhất mà Vân đề cập đến trong thơ chính là những thăng trầm , nghiệt ngã đắng cay mà Vân gặp phải từ khi từ giã tuổi thơ ngây để bước vào đời, nhất là khoảng thời gian 20 năm nơi xứ người.Có những lúc buồn đau , Vân thật sự nhớ cha mẹ , anh em và quê nhà, thèm khát được trở lại thời thơ ấu ghê lắm ! Nghĩ cho cùng , nỗi đau của mình so với những người khác hãy còn nhẹ mà! Quanh mình bao nhiêu người còn gặp phải những nghiệt ngã đắng cay hơn Riêng mối tình đầu của Vân thì thật sự nhẹ nhàng trong sáng chứ không đắm say, các bạn thơ ạ ! Chính vì vậy về thơ tình Vân nhận thấy mình làm không hay được . Thật sự là thế đó!
Cám ơn lời khen của bạn thơ KHÁNH VÂN về bài thơ.
ReplyDeleteTôi chỉ ngỏ ý xin câu thơ đầu để viết vài câu thơ theo ý riêng của mình chớ không có ý họa lại bài thơ của bạn nên ý của hai bài thơ khác nhau.
Lại xin phép “nhiều chiện” một chút về cụm từ “Mối Tình đầu”.
Hầu như ai cũng nghĩ rằng khi có nảy sinh tình cảm giữa nam nữ lần đầu tiên đã vội mặc áo tình nhân cho nó nên cho đó là Mối Tình đầu.
Không đúng đâu! Theo tôi, khi đó chỉ mới...Hình như là Tình Yêu thôi! Thuở đó, các cô cậu ở tuổi mới lớn thì biết gì về Tình Yêu mà đã vội vàng mạo nhận như thế? Nó sắc màu ra sao? Nó đắm say cỡ nào? Nó đem lại hạnh phúc và đớn đau độ nào thì có mấy ai biết? Cứ có chút thoang thoảng nhớ nhung là đã gọi là Tình Yêu.
Dù đã trải qua dăm ba sự liên hệ tình cảm trên mức bình thường nhưng chưa hẳn đó đáng gọi là Tình Yêu.
Thi sĩ tiền chiến há chẳng phải thốt lên “Làm sao định nghĩa được Tình yêu” đó sao?
Tôi cũng có câu trả lời riêng của mình về mệnh đề đó, nhưng vô phép giữ lấy cho mình vì chưa chắc đã đúng với nhiều người khác. Đắm say thôi chưa đủ để nói về nó mà phải có sự trân trọng tuyệt đối nữa.
Yêu theo cái kiểu “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” thì tiêu cực quá!